Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Văn Hiền. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Văn Hiền. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

NGHỀ MỚI Ở KẺ VĂN: THÊU REN XUẤT KHẨU - Nguyễn Văn Hiền

Tác giả Nguyễn Văn Hiền


       Nghề truyền thống và lâu đời nhất từ khi lập làng của quê tôi là nghề chằm nón lá. Nón được đưa đi khắp trong tỉnh Quảng Trị, từ chợ huyện (chợ Vĩnh Linh), chợ Cầu Gio Linh, chợ Sòng, chợ Phiên thuộc huyện Cam Lộ, chợ Sải thuộc huyện Triệu Phong, chợ Kẻ Diên xã Hải Thọ, chợ Mỹ Chánh xã Hải Chánh và gần nhất là chợ Phù làng Phò Trạch và chợ Ưu Điềm, và được người dân trong vùng rất ưa chuộng. Nón lá dày để đội đi lao động, nón lá mỏng dùng để đội đi những việc làm nhẹ nhàng đi ăn đám giỗ, đám cưới... Nghề nầy hiện nay vẫn còn sản xuất và nón cũng được đổi mới bằng cách thêm lá dừa, trông rất trắng và đẹp, được bà con trong làng, ngoài làng đưa đi làm quà khắp nơi từ nam chí bắc.

        Vào năm 2000, HTX mở thêm ngành nghề, đưa một số chị em đi học kỹ thuật thêu. Sau một thời gian ngắn, HTX tổ chức  mở lớp để các chị dạy lại cho các chị em có nhu cầu, tùy theo điều kiện và sức khỏe mà tham gia học để phát triển và tăng thu nhập cho gia đình.

        Việc làm mới và năng động đó của ban quản trị HTX được bà con trong làng rất ủng hộ vì họ đã đem về cho quê hương thêm một nghề để những chị em thiếu sức lao động không có nghề nghiệp tiếp thu học tập và phát huy sở trường của mình, đem lại nguồn thu cho gia đình và nguồn hàng xuất khẩu cho địa phương.

        Sau hơn mười năm sản xuất, hàng của chị em làm ra có chất lượng cao, mẫu mả đẹp, đã được công ty Kinh Đô Huế, với Tổng Giám đốc là người Hàn Quốc, bao thầu đầu vào và đầu ra, xuất đi Hàn Quốc, nên không sợ ứ đọng, hàng làm ra bao nhiêu được công ty thu mua hết. Lương bình quân của chị em mỗi tháng từ 1.300.000 đồng đến 1.500.000 đồng.

        Mỗi lần về quê đi ngang qua HTX nhìn vào thấy khung dệt từ trong nhà ra đến tận ngoài hiên, và thấy chị em say sưa thêu dệt mà mừng cho quê hương đổi mới và vững bước đi lên không thua kém gì ở thành phố, góp phần vào xây dựng hạnh phúc cho mọi nhà.


        CHÀO EM CÔ GÁI KẺ VĂN
        NGÀY XƯA DỆT NÓN NHƯ TẰM NHẢ TƠ
        NGÀY NAY KHUNG CỬI THÀNH THƠ
        DỆT THÀNH HOA BƯỚM VƯỢT BỜ ĐẠI DƯƠNG

Nguyễn Văn Hiền

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Nguyễn Văn Hiền - VĂN QUỸ: MỘT LÀNG QUÊ GIÀU TRUYỀN THỐNG VỀ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA

Lễ tế tại đình làng Văn Quỹ
      Từ ngả ba làng Lương Điền thuộc xã Hải Sơn đi về hướng đông theo bờ sông Ô Lâu 4,2 km là làng Văn Quỹ. Đầu làng có cổng chào xây bằng bê tông cốt thép rất kiên cố và đẹp. Làng được thành lập vào thế kĩ 15 thời Hậu Lê đời Vua Lê Thánh Tông. Theo gia phả các giòng họ ghi lại, vào thời vua Hồng Đức năm thứ sáu khoảng năm 1476, riêng ở làng Văn Quỹ quý Ngài khai khẩn lập làng trước quý Ngài khai canh vào sau.

      Để tri ân quý Ngài Khai khẩn và Khai canh lập ra làng Văn Quỹ, ba Ngài của họ Lê, Nguyền, Đổ truyền thống từ xưa để lại được vinh danh tôn thờ là thượng miếu hạ mộ và có các ngày huý kỵ được làng tế lễ hàng năm cùng với ba Ngài Khai Canh Trần, Ngô, Phạm.


      Tại đình làng, ở giữa thờ Thành Hoàng, bên tả thờ linh vị và sắc phong ba Ngài họ Lê, họ Đổ, Họ Trần; bên Hữu thờ linh vị và săc phong ba Ngài họ Nguyễn, họ Ngô, họ Phạm. Trong những năm đệ nhất và đệ nhị cộng hoà, đình làng Văn Quỹ được vinh danh tôn thờ sáu họ và gọi là Đại Đình Công Sở vì thời lập làng chỉ có Xã Văn Quỹ, đến thời triều Nguyễn mới chia thành hai làng Văn Quỹ,Văn Trị.


      Qua hai cuộc kháng chiến, hầu hết những nhà thờ họ đã bị san bằng. Sau ngày hoà bình, bà con đã che tạm tranh tre để lo hương khói và tế lễ hằng năm. Sau khi khoán 10 ra đời, mức thu nhập của bà con đã khá dần lên, ngày càng được cải thiện, thì từ đình làng đến nhà thờ họ đều được xây dựng mới, thờ tự rất khang trang. Những ngày giỗ tổ của các họ, con cháu nội ngoại tập trung về dự lễ đông đủ và trở thành ngày truyền thống. Ai đi xa cũng nhớ ngày giổ Tổ mà về. Ngày nay, con cháu của các dòng tộc ở khắp mọi miền đất nước luôn nhớ về cội nguồn, nơi chôn nhau cắt rốn,  mặc dù đi làm ăn xa nhưng không quên câu "li hương bất li Tổ".

         * Họ Lê tế Xuân Thủ vào ngày 21 tháng 2 và ngày chánh kị vào ngày 18-19 tháng 5 Âm lịch tại thượng miếu hạ mộ trong khuôn viên nhà thờ họ. Trong hai lần tế lễ được tuyên đọc bài Văn là Hiển Thỉ Tổ Khảo Khai khẩn bổn Thổ lập phường Kinh Triệu Quận chính trực Lê Đại Lang Khâm mông sắc phong dực bảo Trung Hưng gia tặng đoan túc linh phò Tôn Thần.

        * Họ Nguyễn tế Yến Quân vào ngày 26-2 tại thượng miếu hạ mộ đầu làng Văn Quỹ và chánh kị vào ngày 16-17-tháng 8 Âm lịch.Trong bài văn tế lễ được tuyên đọc bài văn là Hiển Thỉ Tổ khảo Khai Khẩn bổn thổ Trần Lưu Quận Quả cảm Đại Tướng Quân Nguyễn Quý Công Khâm mông sắc phong dực bảo Trung Hưng gia tặng đoan túc linh phò Tôn Thần.

         *Họ Đổ tế lễ Điền Bạn ở thượng miếu hạ mộ tại Đậu Cầu ngày 8-2, chánh kị ngày 12-12 tháng 8. Trong hai lần tế lễ được tuyên đọc bài văn tế là: Hiển Thỉ Tổ Khảo Khai Khẩn Đô Thái Giám Đổ Đại Lang khâm Mông sắc phong dực bảo Trung Hưng gia tặng đoan túc linh phò Tôn Thần.

            *Họ Trần chánh kị ngày 16-17 tháng 4, tuyên đọc bài văn tế là Hiển Thỉ Tổ Khảo Khai Canh Dĩnh xuyên quận Trần Đại Lang Khâm Mông sắc phong Dực bảo Trung Hưng gia tặng đoan túc linh phò Tôn Thần.

           *Họ Ngô chánh kị ngày mồng 5-6 tháng Chạp, tuyên đọc bài văn tế là Hiển Thỉ Tổ Khảo Khai Canh Bột Hải Quận Ngô Đại lang Khâm mông sắc phong dực bảo Trung Hưng gia tặng đoan túc linh phò Tôn Thần.

            *Họ Phạm chánh kị ngày mồng 6-7 tháng 10 tuyên đọc bài văn tế Hiển Thỉ Tổ Khảo Khai Canh Cao bình quận Phạm Đại Lang Khâm mông sắc phong Dực bảo Trung Hưng gia tặng đoan túc linh phò Tôn Thần.

      Một làng quê mà sử sách đã ghi lại trong cuốn Ô châu cận lục của Thượng thư triều nhà Mạc Phúc Nguyên(1547-1553). Tiến sĩ Dương Văn An người quê ở xã Tuy Lộc, huyện Lệ Thuỷ,tỉnh Quãng Bình đổ Tiến sĩ khoa đinh mùi 1547 đã viết rất rỏ về Xã Văn Quỹ. Có lẽ ngày xưa tác giả đã nhiều lần về nơi đây mới tận tường biết rỏ “Kẻ sĩ trung nghĩa Văn Quỹ thà chịu cắt tai chứ không theo giặc”. Trong những năm dưới triều chúa Nguyễn, gia phả các giòng họ trong làng đã ghi lại rất nhiều bậc làm quan thời đó. Hiện nay có 5 ngôi mộ cổ mà nhiêu nơi thường gọi là mã tàu, mả vôi được xây bằng chất liệu vôi hàu với mật có được ba ngôi tên tuổi rõ ràng, một ngôi là Quan cai hợp tên là Trần Quý Công quản lí thu thuế và cấp phát lương thuộc địa phận Quãng Nam, một ngôi là Tướng Thần Lý Tài Tử Nguyễn Văn Trung và một ngôi là Tri huyện Thái Hoà Tử Nguyễn Văn Nô, một ngôi không rõ tên tuổi, còn thêm một ngôi tên là Nguyễn Văn Thứ tướng thần thuận nghĩa tử được triều đình an táng và xây lăng mộ tại phường Câu Nhi gần nhà ông Trung. Các ngôi mộ này hầu hết còn nguyên vẹn nhưng do thời gian và biến đổi của thời tiết lũ lụt, chiến tranh bom đạn đã làm hư hỏng và hai ngôi đã bị vùi lấp khá sâu,sau lần đoàn khảo cổ thuộc viện khảo cổ miền trung về tìm hiểu và đề nghị uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Trị và được sở Văn hoá thể thao du lịch đã công nhận và cấp bằng là mộ cổ thời các chúa Nguyễn, là di tích cấp Tỉnh, hiện nay được treo tại nhà sinh hoạt văn hoá thôn.

          Từ khi quý Ngài Thỉ Tổ của sáu họ vào đây khai hoang phá thạch và dựng lên xã Văn Quỹ đã trải qua hơn 5 thế kỉ. Từ những năm đầu, chắc chắn là người dân làng rất vất vả vì chưa có nhà cửa, dân cư ăn ở thưa thớt, điều kiện sinh hoạt kém và khi dịch bệnh đau yếu không có thầy lang. Nghĩ đến đây thì chúng ta biết là sự kiên trì để sinh tồn của tổ tiên mà hôm nay hậu duệ như chúng ta bây giờ được thừa hưởng ta mới hình dung là ngoài sức tưởng tượng và Tri Ân quý bậc tiền nhân đã khai khẩn lập ra làng Văn Quỹ.

      Ngày nay con cháu hậu duệ của làng Văn Quỹ sinh sống trên mọi nẻo đường đất nước và nước ngoài luôn nhớ về quê hương - một làng quê rất giàu truyền thống về lịch sử và văn hoá.


Nguyễn Văn Hiền
vanquyquetoi@gmail.com

Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2013

NHỮNG TÊN LÀNG CÓ TỪ “KẺ” TRONG VÙNG HẢI LĂNG - Nguyễn Văn Hiền

Nhà thờ Giáo xứ Kẻ Văn. Ảnh từ trang web của  Giáo xứ Kẻ Văn.



Từ thời khai sơn lập làng cho đến các đời chúa Nguyễn và sau nầy là Triều Nguyễn, một số làng lân cận trong vùng thuộc Huyện Hải Lăng bao gồm Tổng Câu Hoan và Tổng An Thơ có tên bắt đầu bằng từ Kẻ.

Khi tôi lớn lên đã nghe người dân trong vùng gọi đến tiếng Kẻ như chợ Kẻ Diên thuộc xã Hải Thọ, làng Kẻ Lạng Thuộc xã Hải Sơn, làng Kẻ Văn thuộc xã Hải Văn nay là xã Hải Tân, làng Kẻ Vịnh thuộc xã Hải Kinh nay là Hải Hòa và làng Kẻ Phù thuộc xã Phong Bình bên kia bờ sông Ô Lâu tỉnh Thừa Thiên.

Chợ Kẻ Diên ở Diên Sanh là một nơi giao thương buôn bán và trao đổi hàng hóa với nhau trong vùng nên rất sầm uất. Sách Ô Châu Cận Lục của dịch dã Dương Văn An mô tả là một xã có Hố sen rất đẹp, hải sản rất nhiều. Tôi thường hay đi với Mẹ ra chợ. Năm tôi 13 tuổi, hồi đó học trường Mẫu Tâm, lúc thi hết bậc tiểu học đều phải tập trung thi ở trường Hải Thọ, đã thấy nơi này là một xã giàu có phố xá, cửa hiệu buôn bán lớn và đã có bến xe đi về Huế.

Từ Diên Sanh đi vào phía Nam qua bờ nam sông là xã Hải Chánh có chợ Mỹ Chánh thuộc làng Mỹ Chánh và Hội kỳ (hai làng này không có chử Kẻ). Chợ Hải Chánh buôn bán rất lớn, đông vào buổi sáng, hầu hết người dân hai bên mạn sông Ô Lâu từ thượng nguồn về tận Làng Rào giao thương trao đổi hàng hóa từ mờ sáng đến gần trưa mới bải chợ để về họp chợ buổi chiều của các làng có chợ.

Chợ Kẻ Lạng ở làng Lương Điền xã Hải Sơn họp chợ buổi chiều (còn gọi là chợ hôm Lạng) và sản vật có tiếng là chột nưa.  Hôì đó, ở ngay chợ có bến đò đưa ngang qua làng Mỹ Xuyên thuộc xã Phong Hòa rồi đi lên Mỷ Chánh nên chợ làng ở đây mới có câu ca của dân trong vùng: nhất thuốc Phù Lai, nhì khoai Tân Trường, ba nưa Kẻ Lạng, bốn sắn càng Câu Nhi. Chợ Kẻ Lạng hiện nay không còn đông nữa. Đi men theo bờ sông Ô Lâu về đến đầu làng Câu Nhi là đò ba bến, ở đây có chợ Câu Nhi (làng này không có chử Kẻ). Đò đưa từ chợ Câu nhi qua làng Lương Điền rồi từ Lương Điền qua làng Mỹ Xuyên, cứ đưa đi đưa về ba bến như thế nên gọi là đò ba bến. Chợ Câu Nhi chỉ buôn bán nhỏ trong làng và một số bà con các làng gần đó qua lại trao đổi hàng hóa. Ở đây có nguồn cá sông của các vạn chài đến bán nên cá rất tươi, đặc biệt có sắn Càng rất ngon được mô tả là đặc sản làng Câu Nhi.

Đi hết làng Câu nhi là đến làng Văn Quỹ còn có tên gọi là làng Kẻ Văn. Chợ Kẻ Văn ở đầu làng. Khi tôi lớn lên thì đã có chợ và nghe mẹ tôi kể lại trong thời kháng chiến bà con trong các làng lân cận gọi là chợ kháng chiến, hàng hóa cũng nhiều, một số nhà giàu làm nhà kiên cố và buôn bán hàng tạp hóa. Hiệu thuốc bắc của ông Lý Quãng Phù người làng Câu Nhi và Thuốc Tây của ông Phò (ông người gốc làng Ưu Điềm) chữa bệnh cho tất cả bà con ở các làng lân cận. Quầy hàng của ông bà Sỷ Lạc khá lớn. Có bến cho ghe thuyền của người dân các nơi đến neo đậu để giao thương buôn bán. Ngoài nghề làm nông ra, nghề truyền thống của dân làng là nghề chằm nón lá. Trong làng cũng có nhiều người đi đưa nón lá đi bán các chợ như chợ Cầu, Chợ Phiên Cam Lộ, chợ Sòng, chợ Quãng Trị, chợ Sãi và đưa các loại hàng hóa đặc sản khác về trao đổi cho bà con trong làng. Đi về hơn một km là làng Kẻ Vịnh nay là làng Hưng Nhơn, ở đây chỉ làm nghề nông vì nơi đây ruộng trưa rất nhiều, ngoài ra còn thêm nghề chăn nuôi và nghề cá.

Bên kia bờ sông là chợ Ưu Điềm có bến xe, mỗi ngày hai chuyến đi vô ra thành phố Huế. Chợ ưu Điềm rất sầm uất, có phố xá và nhiều hàng hóa rất có tiếng ở trong vùng. Đi về phía đông khoảng 2km là làng Phò Trạch có chợ Kẻ Phù, chợ này giao thương buôn bán cũng khá lớn từ các làng Vân Trình, Phú Nông, Lương Mai, Phù Lai, Thanh Hương, Đại Lược ... Làng Kẻ Phù có nghề truyền thống là đan đệm vì ở đây các bàu, trằm, và một số ruộng sâu ngày xưa dân làng trồng cây lác là vật liệu để sản xuất đệm, có một đình chợ  để giao thương buôn bán. Nghề trồng lác và sản xuất các loại sản phẩm như đệm, bao đệm, và một số đồ gia dụng khác. Có lẽ nghề nầy được người dân ở đây đưa từ ngoài Bắc lúc di dân vào đây khoãng thế kỷ XV mang theo giống và nghề này vào để sinh sống, nghề gia truyền hiện nay cũng còn một số gia đình đang lưu truyền và sản xuất.

Vào thập niên 1960, trong ngôn ngữ  thường ngày, người dân vùng Ô Lâu vẫn dùng những tên làng Kẻ Vịnh, Kẻ Lạng, Kẻ Phù… Họ thường nói: Hôm qua tui đi chợ Kẻ Lạng mua chột nưa. Năm ni bác có mần lúa rọng su làng Kẻ Vịnh hay khôông? Tuy nhiên, nay rất ít người nhắc đến. Tên làng Kẻ Diên rất may vẫn còn nhớ được nhờ bài ca dao nổi tiếng “Đi chợ kẻ Diên” và tên làng Kẻ Văn hiện nay vẫn còn được biết đến nhờ gắn với tên Giáo xứ Kẻ Văn.

Nhìn lại một số xã mà theo sách Ô Châu Cận Lục ghi lại như Văn Quỹ,Vĩnh Hưng, Diên Sanh, Phò Trạch thì đã có đầy đủ trong sách, riêng Xã Hải Sơn có Chợ Kẻ Lạng thì không có trong Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An, như vậy làng Lương Điền thuộc xã Hải Sơn, làng Mỹ Chánh và làng Hội Kỳ thuộc xã Hải Chánh được thành lập từ thế kỷ nào?



Qua phân tích trên, chúng tôi xin bạn đọc cần tìm hiểu về những làng có chử Kẻ nêu trên được đặt tên làng (Kẻ) từ thế kỉ của Triều đại nào và chử Kẻ có truyền thuyết như thế nào.

Nguyễn Văn Hiền 
(Làng Văn Quỹ, xã Hải Văn nay là xã Hải Tân, Quảng Trị)



TÓM TẮT TÀI LIỆU DO PHAN DUY KHA TỔNG HỢP
(Nguồn: Họ Phạm Việt Nam: hophamvietnam.org)

Nghiên cứu địa danh các làng xã cổ xưa của người Việt, ta thấy tên nhiều làng có từ "Kẻ". Thí dụ, ngay tại Hà Nội có Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Kẻ Mọc (Nhân Mục), Kẻ Cót (Yên Quyết), Kẻ Mẩy (Mễ Trì) rồi Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ, Kẻ Giàn, Kẻ Cáo... Có một điều chung nhất trong tất cả các làng mang tên kẻ này, đó đều là những làng cổ. Theo ý nghĩa của ngôn từ Việt cổ, có thể hiểu từ kẻ ở đây chỉ một cụm dân cư sống trên một địa bàn cụ thể. Thí dụ, Kẻ Noi = Người (ở làng) Noi; Kẻ Mọc = Người (ở làng) Mọc; Kẻ Bưởi = Người (ở làng) Bưởi... Để đơn giản, người ta hiểu: Kẻ Noi = làng Noi; Kẻ Mọc = làng Mọc; Kẻ Bưởi = làng Bưởi... Như vậy, ở đây kẻ được đồng nhất với làng.

Những vùng làng có tên Kẻ được tập trung vào ba trung tâm chính:

1. / Trung tâm núi Hồng - sông Lam (phía nam Nghệ An, phía bắc Hà Tĩnh ) Ở đây có những huyện mà số làng tên Kẻ chiếm đến 2/3 (tức hơn 60%) tổng số các làng, như huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu (Nghệ An) có nhiều làng Kẻ.

2. /  Trung tâm Đông Sơn (Thanh Hóa): Gồm các huyện nằm ven chân núi và vùng đồng bằng sông Mã, sông Chu như: Đông Sơn, Thiệu Yên, Triệu Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Hà Trung, Nông Cống. Các làng Kẻ làm thành một vệt liên tục từ Kẻ Don (Vĩnh Lộc) xuống Kẻ Đàng (Thiệu Yên).

3. / Trung tâm Việt Trì - Phong Châu: Đây là trung tâm của thời kỳ các vua Hùng. Những làng mang tên Kẻ ở đây phân bố ven theo chân núi Ba Vì, Tam Đảo và dọc theo châu thổ sông Hồng từ Phong Châu, Việt Trì xuống đến phạm vi thủ đô Hà Nội. Các huyện Phong Châu, Thanh Sơn, Sông Thao, thành phố Việt Trì (Phú Thọ), Lập Thạch, Tam Đảo, Vĩnh Lạc, Mê Linh (Vĩnh Phúc), Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm (Hà Nội) đều có nhiều làng Kẻ. . Đền Hùng ở cạnh một làng mang tên Kẻ: Kẻ Khống (Chu Hóa, Phong Châu); Cổ Loa là Kẻ Chủ; quê hương của người anh hùng Thánh Gióng là Kẻ Đổng (Phù Đổng, Gia Lâm). Toàn bộ vùng Kẻ ở khu vực này tạo thành một hình tam giác, lệch về góc đông nam.

Ngay kinh đô Văn Lang của các vua Hùng có thể cũng chỉ là một Làng Lớn (Làng Cả - Kẻ Cả) mà thôi.

Có thể nói: những kẻ, bản, mường đó là những tập hợp cư dân, những đơn vị cơ sở đầu tiên của thời kỳ Hùng Vương dựng nước.

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

NÔNG NGHIỆP VĂN QUỸ: BA MƯƠI HAI NĂM MỘT CHẶNG ĐƯỜNG - Nguyễn Văn Hiền

Cổng làng Văn Quỹ. Ảnh Lê Đăng Mành


          Sau ngày đất nước hoà bình 30/04/1975, tất cả bà con xa quê hương đều trở về làng theo chính sách của nhà nước. Những ngày đầu tiên, chính quyền cho thành lập từng tổ chung vốn làm ăn mua máy cày, máy bơm nước, trâu  bò để có đủ sức kéo phục vụ cày bừa cho đồng ruộng vụ hè thu năm 1975 và có đủ phương tiện và điều kiện trước khi vào làm ăn tập thể cho các năm tiếp theo. Ngoài các gia đình mua trâu bò, ở trong làng có hai đoàn là đoàn máy cày và đoàn máy bơm nước. Tất cả tài sản do bà con làm ăn riêng lẽ từ vụ hè thu 1975 đến vụ đông xuân 1975/1976 đều phải hoá giá,  từ cày bừa cho đến dụng cụ tư liệu sản xuất đều đưa vào làm ăn tập thể như kiểu của miền bắc, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ xã (*) (thời gian nầy đó ở xã mới chỉ có chi bộ), ở thôn có ban điều hành thôn do ông Nguyễn Bá Tính làm trưởng ban (gọi là ban nhân dân CM thôn) và ban nông hội thôn do bà Nguyễn thị Thục, hội trưởng, quản lý trực tiếp cùng với BĐH thôn chịu trách nhiệm mọi nghĩa vụ lao động, lương thực, thực phẩm đối với nhà nước, thành lập ra 4 tập đoàn chia thành 16 đội sản xuất, mỗi đội quản lý gần 8 ha ruộng(*). Ban chỉ huy đội có ba người đội trưởng điều hành chung, đội phó phụ trách điều công và thư ký đội làm kế toán ghi công điểm phụ trách ăn chia phân phối lương thực và ghi các nghĩa vụ lao đông, lương thực, thực phẩm.
           Được hơn một năm, Hợp tác xã 16 đội rút gọn chia lại thành 12 đội nhưng làm ăn vẫn trì trệ, rong công phóng điểm, ngày công chưa đạt với sức lao động của nông dân bỏ ra, năng suất và sản lượng thấp, khâu cày bừa còn sơ sài, giống lúa chưa thuần chủng nên vụ nào cũng không đạt năng suất.
          Qua năm 1978,  mô hình làm ăn lớn hơn, toàn xã có ba HTX. Câu Nhi và Hà Lỗ thành một HTX gọi là HTX Tân Phong do Ông Hoàng Tấn Xuân làm chủ nhiệm. Văn Quỹ và Văn Trị thành một HTX gọi là HTX Tân Văn do Ông Phạm Duy Thành Chủ Tịch UBND xã kiêm nhiệm. Và một HTX Mua bán do ông Bùi Hữu Trọng làm chủ nhiệm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của UBND xã. Khi thành lập xong, xã cử một đoàn cán bộ cốt cán bao gồm các chánh phó chủ nhiệm và các đội trưởng của các HTX đi tham quan học tập cung cách làm ăn tập thể mô hình lớn tại HTX Định Công, Thanh Hóa, trưởng đoàn là ông Phạm Duy Thành, phó đoàn là ông Hoàng tấn Xuân chịu trách nhiệm đưa đoàn đi tham quan học tập trong thời gian ba tháng, sau đó, đi tham quan học tập thêm ở HTX Đức Ninh tỉnh Quảng Bình. Bộ máy của BQL các HTX có một chủ nhiệm, bốn  phó chủ nhiệm một phụ trách trồng trọt, một phụ trách ngành nghề, một phụ trách chăn nuôi, một phụ trách văn hoá, ban tài vụ gồm kế toán trưởng, một kế toán tổng hợp và 4 kế toán viên đi theo từng ngành nghề để theo giỏi ghi chép và hạch toán, ban kiểm soát có ba người. Một bộ máy rất cồng kềnh hoạt động theo kiểu bao cấp, làm ăn vẫn không hiệu quả, phần thu nhập của xã viên không đủ ăn trong gia đình.
            Đến năm 1980, HTX Tân Văn chia thành 2 HTX ở làng Văn Quỹ là HTX Văn Nam do ông Nguyễn Khánh May làm chủ nhiệm, ở làng Văn Trị là HTX Văn Thạnh do ông Phạm Tài Hoản làm chủ nhiệm, thực hiện chỉ thị khoán 100 tổ chức với hình thức khoán sản phẩm đến tận nhóm và người lao động, người dân đón nhận với tinh thần phấn khởi, năng xuất và sản lượng ngày càng tăng, nghĩa vụ lương thực và thực phẩm đối với nhà nước luôn hoàn thành đạt chỉ tiêu, đời sống của từng gia đình có khấm khá hơn.
             Đến cuối năm 1989, chỉ thị 80 ra đời, việc giao thương buôn bán được tự do đã mở ra một phương thức làm ăn mới, không ngăn sông cấm chợ, tự do buôn bán trong cả nước thì HTX Mua bán cũng được giải thể, thị trường thương mại thuộc về tư thương. Từ đó, khoán 10 được ra đời như một luồng gió mới được bà con tiếp nhận với tinh thần rất cao vì quyền lợi đã đến với họ rất rõ rệt nên nông dân thi đua làm ăn, thay đổi giống lúa mới có năng suất cao, đầu tư thâm canh giống cây trồng và vật nuôi, mua sắm thêm máy cày và các phương tiện phục vụ cho nông nghiệp, đời sống người dân ngày càng được cải thiện.
            Từ năm 1990 đến 1995, HTX nông nghiệp chỉ làm nhiệm vụ đầu tư bao thầu các vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, xây dựng kênh mương nội đồng, đảm bảo khâu máy cày và tưới tiêu cho đồng ruộng, các hộ nhận khoán chỉ lo chăm bón, phòng trừ sâu bệnh hại lúa, thu hoạch và giao nộp sản phẩm đầy đủ theo hợp đồng giao khoán với HTX, năng suất và sản lượng các năm nầy luôn đạt chỉ tiêu kế hoạch của đại hội hằng năm đề ra.
             Đến tháng 8/1995, HTX thực hiện nghị quyết 64 của Chính Phủ chia ruộng đất lâu dài cho từng hộ nông dân 20 năm, dồn điền đổi thửa nên bà con đã đầu tư thâm canh cho ruộng của mình, năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Đến năm 1998, HTX chính thức đại hội chuyển đổi thành HTX kiểu mới và đổi tên thành HTX Văn Quỹ. Hiện nay, HTX đã tổ chức đào tạo thành công cho 40 lao động nữ chuyên thêu ren hàng xuất khẩu, thu nhập bình quân từ 1.5 (*) đến 2 triệu đồng / người / tháng.
          Trong những năm gần đây, HTX được trung tâm giống cây trồng tỉnh Quảng Trị đầu tư làm các trục đường bê tông từ trong làng ra tận đồng ruộng. Năm 2010, trung tâm xây dựng ở đầu làng một trạm bơm điện ba mô tơ có công suất lớn đảm bảo tưới tiêu cho đồng ruộng kiệt giữa và thượng đàng phe. HTX và trung tâm đã liên kết với nhau, mỗi năm HTX cung cấp cho trung tâm trên 70 tấn giống lúa thuần chủng các loại.
           Trải qua bao đời nay, người dân quê tôi vẫn con trâu đi trước cái cày theo sau, mùa màng được ít, mất nhiều. Giống lúa dài ngày vụ ĐX hay bị mất mùa vì khi lúa trổ gặp gió về. Vụ trái thường hay bị mất trắng vì lũ ngập sâu. Trước đây, hằng năm người dân thường lo thiếu ăn, thiếu mặc, nay đã thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ cực, đã có của ăn của để, con cái được học hành, trường lớp khang trang, có đủ lớp cho con em học tập, có các công trình phục vụ dân sinh như hệ thống điện sinh hoạt, công trình nước sạch, đê bao chống lũ, giao thông đi lại đường sá về mùa mưa không còn lầy lội như xưa. Về nông nghiệp, đã có hai trạm bơm điện tưới tiêu cho đồng ruộng, máy cày thay trâu, không còn đến vụ gieo mạ và chiếc (nhổ mạ bằng tay) để cấy mà nay đã dùng giống để gieo thẳng. Hết làm nhiệm vụ nhổ cỏ cho lúa mà đã thay vào là phun thuốc trừ cỏ, không còn sợ thiếu người gặt lúc thu hoạch những nơi xa xôi vì nay đã có máy gặt liên hợp và phương tiện vận chuyển về đến tận nhà. Việc cơ giới hóa nông nghiệp đã đem lại cuộc sông tươi vui, ấm no, hạnh phúc cho bà con. Nhà nào cũng tường xây, mái bằng hoặc lợp ngói, có nhà gác chống lụt bão và mưa gió, có xe máy, ti vi, và các phương tiện sinh hoạt khác khá đầy đủ. Đến nay, lương thực bình quân đầu người đạt 1450kg thóc*. Thu nhập bình quân đầu người đạt *15.500.000đồng/năm.
           Nhìn lại 37 năm về trước, những ngày đầu mới giải phóng, lúc vào làm ăn tập thể, thiếu thốn đủ bề, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nông cụ sản xuất còn thô sơ và lạc hậu như thế lại còn phải cơm đùm gạo bới đi khai hoang vùng chện để trồng màu cứu đói lúc giáp hạt, đi làm nghĩa vụ lao động dài ngày với nhà nước, khai hoang trồng sắn mộ ông Chưỡng ở Hải Lâm, làm thuỷ lợi đập trấm ba năm ở xã Hải Lệ, làm đê bao chắn cát ở Hải Dương nhưng người dân quê tôi vẫn kiên trì để vượt qua khó khăn ...
           Hiện nay, quê hương Văn Quỹ chúng ta, từ đầu làng đến cuối xóm, đã thấy phong cảnh một làng quê đổi mới hoàn toàn, cùng với cả nước xây dựng nông thôn mới hội nhập và phát triển với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ và văn minh.
           Xin trích đoạn đầu bài thơ Văn Quỹ Làng Tôi của anh Trần Tư Ngoan người Văn Quỹ hiện đang sinh sống tại thị trấn Ngãi Giao tỉnh Bà Rịa VũngTàu đã cảm nhận về quê hương của mình như sau.

Ai về Văn Quỹ làng tôi
Đi bên ruộng lúa bồi hồi lòng nghe
Đất lành vun đắp hồn quê
Bao nhiêu đời đã tràn trề niềm thương
Ai về Văn Quỹ nhặt hương
Hoa cau hoa bưởi dọc đường hoa xoan 
Nghề nông cày cấy muôn vàn
Mùa mưa mùa nắng trồng sang mùa đời
Mây bay ngắm mái đình phơi
Mấy trăm năm đứng ngậm lời tiền nhân


          Nhân ngày thành lập hội nông dân tập thể 14/10, được sự thống nhất của UBND xã Hải Tân, BQL hợp tác xã nông nghiệp Văn Quỹ (tiền thân của nó là từ HTX Tân Văn tách ra năm 1980 thành HTX Văn Nam nay đổi thành Văn Quỹ) tổ chức kỷ niệm 32 năm thành lập, mời các chú các anh đã tham gia ban chủ nhiệm HTX và ban chỉ huy đội sản xuất qua các  thời kỳ gặp mặt và toạ đàm giao lưu nhằm ôn lại những ngày đầu khó khăn vất vả, qua hơn 36 năm phấn đấu mới có được thành quả như ngày hôm nay.

(*) Theo số liệu của HTX BÁO CÁO


                Ngày 14/10/2012
Nguyễn Văn Hiền
nguyenvanhien405@gmail.com

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

TÌM HIỂU VỀ CÁC LOẠI ĐẶC SẢN CỦA HAI BÊN BỜ SÔNG Ô LÂU ĐẾN PHÁ TAM GIANG - Nguyễn Văn Hiền


             Trước tiên, ta đi từ làng Tân Điền thuộc xã Hải Sơn, người dân ở đây trồng cây Chè đã từ lâu đời. "Chè Lương Điền” tuy trồng tại đất Lương Điền nhưng lại mang cái tên là "chè Mỹ Chánh", cũng ngang hàng với chè Truồi ở Phú Lộc - Huế, nước rất xanh và đậm đà, sau mỗi bữa ăn xong, uống vào một bát thì không có gì bằng. Người dân ở đây ngày nào cũng có chè để bán nhưng đến mùa thu hoạch rộ thì họ đưa đi chợ Mỹ Chánh, Ưu Điềm và nhiều nơi khác, đặc biệt là gánh đi bán rong cho các làng lân cận vào những ngày mùa thu hoạch lúa. Tờ mờ sáng là họ bắt đầu quang gánh ra đi rao bán từ làng Câu Nhi về tận làng Phú Kinh xã Hải Hoà, bán hết hàng là đi bộ lên, đoạn đường khoảng trên dưới 10km. Hiện nay chè Mỹ Chánh đưa đi khắp nơi, ra đến tận Thị xã Quảng Trị, thành phố Đông Hà, Gio Linh, Vĩnh Linh ..., ngày nay thì phương tiện vận chuyển và đi lại thuận lợi hơn nên họ đưa đi bán bằng xe ô tô, xe đạp, xe máy.


Cây nưa
            Làng Lương Điền, còn có tên gọi dân gian là làng Kẻ Lạng, đối diện với làng Phước Tích và Mỹ Xuyên phía nam sông Ô Lâu thuộc tỉnh Thừa Thiên, có loại đặc sản là nưa. Cây nưa Lương Điền trồng theo từng vồng rộng độ khoãng 2,5 đến 3 mét, khi trồng xong họ ủ rơm và các loại lá cây để giữ độ ẩm cho cây. Loài cây nầy, khi thu hoạch, thân cây dài độ 40 đến 60 cm, mua về tước vỏ mỏng bên ngoài, thái ra nấu nhừ cùng với cá tràu, ăn với cơm rất là tuyệt. Củ của nó có rất nhiều đáu (củ nhỏ hơn) đeo quanh, mua về hấp chín, dùng dao gọt vỏ mỏng và ăn với muối ớt rất ngon, có khi ăn trừ bữa. Củ của nó để lâu được, vừa để làm giống cho vụ sau, số còn đem ra chợ bán, mua về nấu hấp ăn với đường cát rất bùi và ngon.

            Đi ra phía nam 1 km có làng Tân Trường xã Hải Trường.  Khoai lang trồng tại vùng đất pha cát của làng nầy có vị rất bùi và ngon, lúc thu hoạch, người dân đưa ra chợ bán, số còn lại trải giữa nhà để dành để ăn  hoặc làm giống cho vụ sau. Loại khoai lang nầy ngoài ăn ra còn chế biến các thức ăn khác như nấu canh, nấu la gu, ăn rất tốt cho sức khoẻ, theo đông y, người ta gọi là nhuận trường.

            Đi về làng Câu Nhi và làng Văn Quỹ có loại sắn,  ở Câu Nhi có sắn “Càng” vì làng này có một vùng đất trồng màu ở men sông Ô Giang, cạnh làng Văn Trị ở Văn quỹ có trưa đồng vườn (trưa là đất để trồng cây ngắn ngày như cây mạ, đậu, mè ...), khi chiếc má (nhổ mạ) cấy ruộng xong là trồng sắn. Vào những năm 1950 đến 1972, dân làng ưu tiên những vùng đất này để trồng sắn lúc thu hoạch, củ không lớn mà nhiều thân củ rất dài, hấp với cơm ăn rất dẽo và thơm, nếu ăn nhiều người thì phải bóc vỏ bỏ vào nồi nấu một lúc độ một tiếng đồng hồ là đưa xuống ăn với muối mè. Những ông bà già không có răng rất  thích ăn loại đặc sản này thì lấy mo nang của cây tre bỏ củ sắn vào, lấy cây gổ dập bẹp để ăn, thấy như vậy là đủ biết củ sắn Càng Câu Nhi và sắn vườn làng Văn Quỹ nó ngon và hấp dẫn đến chừng nào.

            Qua đò Ưu Điềm, đi vào động Thôn Niêm thuộc xã Phong Hoà và Phong Bình, ta bắt gặp  rất nhiều bàu nước gọi là động cát.  Làng Thôn Niêm, thôn Bàu có cây rau Tong, ngoài ra còn  có tên gọi là rau Bưng, rau Xục Xạc mọc dưới nước chảy quanh năm nên thân cây rất sạch, cây mọc tự nhiên, cứ đến mùa là dân làng đua nhau đi nhổ về đem ra chợ bán. Loại rau này ăn rất tốt cho tiêu hoá, mua về rửa sạch trộn thêm một số rau màu khác như rau cải, rau thơm, thân cây ném, rau ngò, lá quế, rau chắp (diếp) cá, dưa giá ...,  mỗi loại một ít, trộn đều, tuỳ theo người ăn để gia công chế biến, nước chắm thường dùng mở heo vằm nhỏ cùng với gia vị như mắm tôm "ruốc biển”,  mỳ chính, ớt bột, tất cả các gia vị nầy nấu như nấu canh nhưng hơi mặn, ăn với rau tong mới vừa và ngon. Ai đã sống ở các làng hai bờ sông Ô Lâu khi đi xa cứ nhớ loại rau đặc sản này. Nhà thơ Lê Đăng Mành ở làng Văn Quỹ đã cảm nhân viết bài thơ về "Rau Tong" như sau.

RAU TONG
Ngút ngàn độộng (1) cát Thôn Niêm
Đưới trằm (2) lấp lánh Mạ (3) tìm Rau Tong
Bồng bềnh rau lướt sóng đông
Rét run triêng gióng (4) Mạ còng lưng sương (5)
Phận nghèo rau cũng cảm thương
Chêm (6) cùng khoai sắn đoạn trường giêng hai
Đời con phiêu bạt trần ai
Cao lương thì kệ (7), nhớ hoài Rau Tong

      (Mùa rau tong đã về, thu Tân Mão - 2011)
LÊ ĐĂNG MÀNH 
CHÚ THÍCH
(1)-Độộng cát: cồn cát, gò cát
(2)-Đưới trằm: dưới bàu, dưới ao, hồ
(3)-Mạ: mẹ
(4)-Triêng gióng: quang gánh
(5)-Sương (động từ): gánh
(6)-Chêm: nêm, nhét thêm, kèm thêm.
(7)-Kệ: bỏ qua, xem như không có



            Chúng ta đi về qua đò ngang qua làng Ưu Điềm về làng Phù Trạch, làng Lương Mai rồi tới làng Phù Lai có tên gọi khác là Phong Lai, ở đây cũng đất pha cát, người dân ở đây trồng cây thuốc lá ngọn, đến mùa thu hoạch, họ phơi khô xâu lại thành từng xấp, cất lại, họ bán thường xuyên quanh năm tại các chợ từ Phò Trạch, Mỹ Chánh về tận Thanh Hương, Đại Lược, Thế Chí. Thương nhân họ mua bán rất dễ tính, vừa bán sĩ vừa bán lẽ, bán theo nhu cầu của người mua, có khi mua chỉ một lá để hút, họ cũng bán rất vui vẻ. Mặt hàng nầy họ đưa đi khắp nơi để bán, về tận các làng quê hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, loại thuốc lá nầy ở Thừa Thiên có làng Mỹ Lợi huyện Phú Lộc, ở Vĩnh Linh - Quảng Trị  có xã Vĩnh Thái, đều được người tiêu dùng rất ưu chuộng, khi hút vào đậm đà, thơm ngon và thàn (tàn thuốc) trắng. Riêng thuốc lá Phù Lai được xếp vào bốn loại hàng đặc sản mà có câu ca dao ở trong vùng rằng.

Nhất thuốc Phù Lai
Nhì khoai Tân Trường
Ba Nưa Kẻ Lạng
Bốn sắn càng Câu Nhi

          Từ làng Rào thuộc xã Phong Bình tỉnh Thừa Thiên đi về độ 4km là làng Thanh Hương chuyên trồng ớt trái. Cứ đến vụ thu hoạch, người dân làng hái quả đưa lên các chợ bán. Họ rất cẩn thận để nguyên cả cuống quả dùng cho dài ngày. Loại ớt nầy chế biến rất nhiều món, ngâm với muối hạt cho vào thẩu gọi là ớt chua, mua tươi về vằm thật nhỏ bỏ váo ít đường và ruốc tươi trộn đều ăn với cơm rất ngon, phần còn lại phơi khô đưa vào cối giả mịn mà ngày nay dùng máy xay nhỏ gọi là ớt bột để gia vị lúc chế biến các món ăn thường ngày. Hiện nay ở làng Thanh Hương,  dân làng trồng ớt quanh năm để bán ra thị trường.




TRỒNG THUỐC LÁ Ở LÀNG PHÙ LAI"PHONG LAI"
           Nói chung, các làng có các mặt hàng trên  trước tiên là do thổ nhưỡng của đất theo từng vùng phù hợp với từng loại cây để trồng cho năng suất và có giá trị kinh tế cao đã được người tiêu dùng công nhận là đặc sãn, nhưng tiếc thay làng Câu Nhi và Văn Quỹ nay không còn trồng sắn trên đất củ nửa và đã mất đi một mặt hàng giá trị mà đã bao đời ông cha ta lưu truyền lại. Các vùng đất trồng sắn ngày xưa nay đã có nước để trồng lúa hai vụ nên các  HTX nông nghiệp cho quy hoạch để bà con trồng lúa. Hiện nay, tất cả các làng quê thuộc hai bên sông Ô Lâu,  ngoài các mặt hàng đặc sản đó ra, người ta trồng rất nhiều rau, củ, quả như mướp đắng, mướp ngọt, bầu, bí đao, bí ngô ... cung cấp cho thị trường với số lượng khá lớn, quanh năm suốt tháng, ngày nào các chợ đều có hàng để bán theo nhu cầu của thị trường ./.
THUỐC LÁ PHƠI KHÔ XÂU THÀNH XẾP ĐỂ ĐƯA ĐI BÁN

GÁNH CHÈ MỸ CHÁNH ĐẾN BÁN TẬN TỪNG NHÀ


ỚT TƯƠI VÀ NGÒ



MẮM TÔM CÒN GỌI LÀ RUỐC BIỂN



RAU TONG  (PHOTO: NHƯ KHOA &VĂN HIỀN)


RAU TONG VÀ NƯỚC RUỐC CHẤM KHI ĐÃ CHẾ BIẾN  XONG

Viết bài: Nguyễn Văn Hiền
Văn Quỹ