Hiển thị các bài đăng có nhãn bình thơ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bình thơ. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

Châu Thạch - Đọc bài thơ “RU NGƯỜI TÌNH NGỦ” của NGUYỄN VĂN TÀI

 Nguyễn Văn Tài và Ngã Du Tử


RU NGƯỜI TÌNH NGỦ

Giữa cơn bát nháo cuộc đời
Ta ru em ngủ bằng lời trái tim
Ầu ơ ! bảy nổi ba chìm
Bao giông tố vẫn còn đêm tương phùng.

Dịu dàng chăn ấm đắp chung
Cho em quên những lạnh lùng thế nhân
Vai ta từ độ phong trần
Cho em tựa giấc hồng nhan lạc loài.  

Giữa mông lung của đêm dài
Ôi ! long lanh một hình hài vẹn nguyên
Nửa phàm tục, nửa thần tiên
Tơ duyên bèo bọt mà thiêng liêng tình.  

Ngủ đi ! Mình của hai mình
Lời ru ta nguyện đón bình minh lên
Lời ru ta dẫu không tên
Cũng mong tan hết vào em đêm nầy.                                                                    
 
Tây Ninh 4.2013
NGUYỄN VĂN TÀI


Lời bình: Châu Thạch

Lâu quá không đọc được thơ Nguyễn Văn Tài. Tình cờ đọc được “Ru người tình ngủ” của nhà thơ trên trang web phongdiep.net, tôi có cảm tưởng như mình gặp lại bạn xưa. Tôi không biết “Ru người tình ngủ” là một bài thơ Nguyễn Văn Tài hư cấu hay là sự thật, nhưng mà, chẳng người đàn ông nào không mơ ước cái cảnh mê ly kia. Đọc bốn câu thơ mở đầu, không hiểu vì sao tôi cứ liên tưởng đến một cơn bão vừa đi qua, cây đổ nhà xiêu nhưng bầu trời trở nên trong veo và êm ả :
               
Giữa cơn bát nháo cuộc đời
Ta ru em ngủ bằng lời trái tim
Ầu ơ ! bảy nổi ba chìm
Bao giông tố vẫn còn đêm tương phùng.

Quả thật sự liên tưởng của tôi không sai mấy, vì được ru em giữa cơn bát nháo cuộc đời, giữa bảy nổi ba chìm thì thời gian lúc ấy có khác chi bầu trời sau cơn giông bão kia đâu.
Vì sao tác giả ru em ngủ bằng lời trái tim?  Lời trái tim có nghĩa là không có lời gì cả mà chỉ có sự rung động trong tim anh và sự đồng cảm giữa hai người. Bốn câu thơ giới thiệu một khung cảnh đoàn tụ “Như không hề có cuộc chia ly” thật là đằm thắm và chắc có lẽ vô vàn sự ngọt ngào mà không cặp tình nhân nào còn nhớ nhau, không mơ ước một lần có lại.

Qua vế thứ nhì của bài thơ, tác giả đưa vai làm người hùng để che chở cho em nhưng thật ra qua thơ, không ai không thấy rõ rằng, chính chàng đang tìm ở nàng niềm an ủi vô  biên:

Dịu dàng chăn ấm đắp chung
Cho em quên những lạnh lùng thế nhân
Vai ta từ độ phong trần
Cho em tựa giấc hồng nhan lạc loài.

Dịu dàng đắp chăn ủ nàng trong hơi ấm, lấy đôi vai phong trần của mình làm điểm tựa cho em gối đầu mà  ngủ, chẳng qua cũng giống như hai con thuyền tựa nhau trôi giạt sau nhiều ngày lênh đênh trong bão táp.

Với bốn câu thơ nầy tác giả làm người độ lượng, làm một mái nhà, làm một chiếc phao êm ái, nhưng thật ra con người, ngôi nhà hay chiếc phao kia đã hoang tàn vì năm tháng, bây giờ ấm lên vì khách xưa viếng lại chốn xưa. Đọc bốn câu thơ ta thấy lòng ta cũng ấm như chính ta được đắp chăn, được tựa vai người mà ngủ.

Khổ thứ ba giống như hai câu luận của một bài thơ Đường, tác giả giải rộng ra để người đọc hiểu sâu hơn tâm trạng của người trong cuộc giữa đêm dài kề cận bên nhau, sau nhiều tháng năm xa cách, chịu bao nhiều vùi dập của cuộc đời:

Giữa mông lung của đêm dài
Ôi ! long lanh một hình hài vẹn nguyên
Nửa phàm tục, nửa thần tiên
Tơ  duyên bèo bọt mà thiêng liêng tình.

-“Nửa phàm tục, nửa phần tiên”: Có lẽ nàng là tục đối với đời vì là “hồng nhan lạc loài” nhưng vẫn là tiên đối với người thi sĩ vì nàng vẫn “Long lanh một hình hài vẹn nguyên”. Cái hình hài vẹn nguyên vừa tục vừa tiên đó đã mang đi cuộc tình làm cho tơ duyên bèo bọt, mà nhờ đó nên bây giờ mới hóa thiêng liêng. Ôi chao, nếu nàng không bóp nát ra cho thành bèo bọt thì biết đâu đã trở thành như rơm rác lâu rồi.

Tội nghiệp cho Nguyễn Văn Tài, anh luôn luôn có một niềm hy vọng, tin tưởng vào nhân thế, tin tưởng vào cuộc đời nên vế chót của “Ru người tình xưa” có hậu vô cùng:
                  
Ngủ đi ! Mình của hai mình
Lời ru ta nguyện đón bình minh lên
Lời ru ta dẫu không tên
Cũng mong tan hết vào em đêm nầy.

Với tôi, tôi nghĩ rằng thà bình minh đừng lên và hai người ôm nhau chết trong đêm thì bài thơ sẽ làm cho nhiều người rơi lệ, nhưng như thế thì ác quá phải không? Và như thế thì đâu phải thơ Nguyễn Văn Tài.

Đà Nẵng tháng 4.2013
CHÂU THẠCH

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2013

Châu Thach - ĐỌC "XIN THƠ" CỦA LÊ ĐĂNG MÀNH

Lê Đăng Mành



XIN THƠ    

Quý Tỵ chắc đây cạn số rồi
Bên bờ ngắc ngoải kiếm bè bơi
Tập mài thư pháp dâng trao bạn
Học chuốt chữ câu kính hỏi người
Còn thở: ngửa vay sương mặt đất
Tắt hơi: cúi trả gió gầm trời
Có  ai thương cảm xin mời họa
Chín suối quảy về ngồi đọc chơi  

Lê Đăng Mành



Châu Thạch và cháu nội


Lời bình:  Châu Thạch

Tôi không biết hoàn cảnh của tác giả Lê đăng Mành ra sao, anh có thật sự đứng trước lưởi hái tử thần hay không, nhưng qua bài thơ của anh tôi thấy một tâm hồn thanh thoát, ngược đời và cởi bỏ được lo buồn trong cơn biến cố.

Hai câu mở đầu của bài thơ cũng bình thường như nhiều bài thơ Đường luật, có khác chăng là ở đây giới thiệu một hoàng cảnh không vui, người trong thơ bi quan cho số mệnh của mình:
  
Quý Tỵ chắc đây cạn số rồi              
Bên bờ ngắc ngoải kiếm bè bơi

Bước qua hai câu trạng là một tư tưởng đột phá, mới lạ và ngược đời nhưng lại vô cùng siêu thoát mà tôi chưa từng thấy ở giữa đời nầy:

Tập mài thư pháp dâng trao bạn              
Học chuốt chữ câu kính hỏi người

Đứng trước lưởi hai tử thần mà không run sợ, âu lo là điều hiếm thấy, cười cợt châm biếm tử thần đã là người can đảm, nhưng ở đây không như thế, mà ngược lại tác giả tập thư pháp để dâng trao bạn, học làm thơ để kính hỏi người là một diều vượt trội, mấy ai dám nghĩ tới đâu. Đó phải chăng là một sự ngược đời? Đúng, đó là một sự ngược đời, trái với tâm trạng bao người đang “Bên bờ ngắc ngoải kiếm bè bơi”. Nhưng chính cái ngược đời ấy chỉ xảy ra ở các bậc chân tu dạt được chân lý và thấu đáo lẽ vô thường. Hơn nữa dầu các bậc chân tu biết trước giờ ra đi họ cũng đều trì niệm, tỉnh tọa an thần chứ có ai còn tập vui chơi thư pháp, chuốt chữ đề câu để dâng trao bạn, kính hỏi người như tác giả “Xin Thơ”. Tôi có viết một bài “Cách tu mới” nói về một cách tu hay hơn tôn giáo. Đó là cách tu “Làm thơ Đường luật”. Đây chỉ là một bài viết vui thôi, nhưng nay đọc hai câu của Lê đăng Mành tôi nghĩ rằng biết đâu nhà thơ cũng có cách “Tu thơ” như thế, mới vô cùng bình thản chơi chữ, chơi thơ trước tử thần.

Qua hai câu luận tác giả mở ra một không gian rộng lớn, trong đó nổi bật hai hình ảnh vừa đẹp vừa trong, bày tỏ cho cái ước nguyện thanh cao trong tâm hồn tác giả:

Còn thở: ngửa vay sương mặt đất                
Tắt hơi: cúi trả gió gầm trời

 - “Sương mặt đất” thể hiện cho vẽ đẹp thanh bai êm dịu, “Gió gầm trời” thể hiện sự nhẹ nhàng có sức mạnh vô biên.

- “Còn thở: ngửa vay sương mặt đất”: Vậy sương mặt đất là nguồn sống, một nguồn sống mong manh dễ dàng tan vỡ.

- “Tắt hơi: cúi trả gió gầm trời”: Gió gầm trời là một năng lực siêu phàm

Vay của sương mặt đất mà trả thì trả cho gió gầm trời nghĩa là sương mặt đất và gió gầm trời là một, cũng chính là quyền lực hay là đấng ban cho và nhận lại. Hai câu thơ nói được cái thân thể, linh hồn nhỏ bé của tác giả kết tụ một phần tinh túy của vẻ đẹp, của sức mạnh vô biên tồn tại giữa đất trời. Lời thơ tuy có vẻ bi quan nhưng ý thơ tôn vinh con người vượt trên cái hữu hạn để hòa nhập vào cái vô hạn cao xa và siêu thoát.

Hai câu kết của bài thơ mang hết cái vẻ đẹp của một tiên ông thong dong và tự tại:             
         
Có ai thương cảm xin mời họa               
Chín suối quảy về ngồi đọc chơi.

Xin hãy đọc bài thơ của Phạm Thái:                 
              
Sống ở dương gian đánh chén nhè                   
Thác về âm phủ cắp kè kè                   
Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?                                    
Be!

Đây là một bài thơ ngạo nghễ, mang cái đam mê trần tục xuống địa phủ bằng một dáng vẻ coi thường tất cả mọi sự ở đời. Lê đăng Mành thì khác, mang cái đam mê của thần tiên xuống địa phủ bằng hết thảy sự trân trọng yêu quý của mình. Uống rượu mà “Đánh chén nhè”, “Cắp kè kè” thì chỉ người trần phàm phu mới làm vậy, còn thơ mà “Quảy về” là cốt cách của tiên ông. Hai câu kết của “Xin Thơ” cũng có thể là một sự ngạo nghễ nhưng là sự ngạo nghễ vơi mọi biến động từ bên ngoài tâm hồn để cho mình tự tại dầu bất cứ ở đâu. Đem thơ lên trời để chơi với tiên thì có nhiều, nhưng quảy thơ xuống địa ngục thì xưa nay hầu như không có, và quả thật làm tiên trên trời thì dễ nhưng làm tiên địa ngục thì khó vô cùng. Cho nên có thể gọi là cách mạng ở hai câu kết của “Xin Thơ

Ngày nay thơ Đường được sản xuất rất nhiều, nó như từ trong máy phun ra nên thường giống từ, giống ý, lặp lại những gì đã nói tự ngàn xưa. Bài “Xin Thơ” tôi cho là ngược đời, nhưng tôi thú vị với cái ngược đời như thế.

Chỉ  là viết theo chủ quan với sự dốt nát hời hợt của mình,có gì sai xin lượng tình tha thứ.                                                    

Châu Thạch 


Thứ Ba, 9 tháng 4, 2013

Châu Thạch - Vài cảm nghĩ về “MỘT MÌNH” - thơ Hoàng Yên Lynh

Hoàng Yên Lynh












MỘT MÌNH 
thơ Hoàng Yên Lynh 

Một ly một xị một mình
Một hình bóng cũ một mình tơ vương
Quẩn quanh gốc núi đồi nương
Một mình đối mặt tha phương một mình
Rượu say, say cũng một mình
Hỏi ai, ai nhớ  hỏi tình ai quên
Hỏi mình trăm nẻo chông chênh
Hỏi người cố quận lênh đênh phương trời
Một mình lại ngóng mưa rơi
Một mình uống mãi rượu vơi lại đầy
Một mình hết tĩnh lại say
Ừ thôi ... Là áng mây bay ... Một mình

HOÀNG YÊN LYNH




Châu Thạch











Cảm nghĩ của Châu Thạch:

      Nhìn bức ảnh của tác giả Hoàng Yên Lynh, rồi đọc bài thơ “Một Mình” của anh tự nhiên trong tôi cảm xúc dâng trào. Khuôn mặt của người trong ảnh thể hiện đủ nét dày dạn phong trần, phảng phất nỗi buồn trầm lắng và cũng không dấu được chất nghệ sĩ trong mái tóc dài che cả vành tai. Tôi không quen không biết Hoàng Yên Lynh cho nên chỉ xem dạng đoán người một cách chủ quan như thế. Tôi cũng đọc thơ Hoàng Yên Lynh lần đầu tiên và bài thơ “Một Mình” của anh đã làm cho tôi rơi nước mắt, nhớ lại những người bạn của mình cũng chữ nghĩa đầy mình đã và đang chôn cuộc đời nơi góc núi đầu non.

     Bài thơ nhập đề với câu thơ “Một ly một xị một mình” đã giới thiệu ngay một cảnh buồn khôn tả. Uống rượu một mình là điều rất buồn. Dầu người nghiện rượu hay không nghiện rượu đều không có ai thích uống rượu một mình. Ở đây Hoàng yên Lynh buộc phải uống rượu một mình vì:

              “Một mình đối mặt tha phương một mình”.

Bốn câu thơ mở đầu của bài thơ “Một Mình” là tiếng kêu thê thiết của nỗi cô đơn lạnh lẽo khi một mình phải tha phương cầu thực, mà tha phương cầu thực ở chốn núi rừng không người yêu, không bạn bè và không cả người thân:             

                    Một ly một xị một mình
                    Một hình bóng cũ một mình tơ vương
                    Quẩn quanh gốc núi đồi nương
                    Một mình đối mặt tha phương một mình

Cái một mình của Hoàng Yên Lynh không chỉ là nỗi đau của cá nhân anh, mà còn là nỗi đau của những con người bị bất đắc chí, bị cuộc đời loại bỏ hay trói buộc không thể vẩy vùng, đem chữ nghĩa chôn vùi trong những cuộc nhậu cô đơn để ngày sau tiếp tục một mình với hẩm hiu, với nỗi buồn vò võ.

     Những câu thơ kế tiếp là  những câu hỏi liên tục, mà hỏi là trả lời. Câu nghi vấn trong thơ trở thành câu xác định, và cũng trở thành tiếng kêu của nỗi cô đơn dằn xé tâm tư:        

             Rượu say, say cũng một mình
             Hỏi ai, ai nhớ hỏi tình ai quên
             Hỏi mình trăm nẻo chông chênh
             Hỏi người cố quận lênh đênh phương trời

Hỏi ai, hỏi mình rồi hỏi người cố quận, tất cả những chữ hỏi nầy phải hiểu rằng có một dấu than (!) vì đó chính là một tiếng than thở thốt lên trong góc núi, nơi đầu non của một người bị ái tình quên bỏ, đời trăm nẻo chông chênh và người xưa biệt mất ở phương trời. Ba chữ “hỏi” dồn dập trong cơn say một mình chứng tỏ rượu chẳng làm vơi nỗi buồn u uất trong lòng tác giả, rượu càng làm cho tinh thần tác giả tỉnh táo thêm, để gậm nhấm cho hết nỗi cô đơn giữa núi rừng cô quạnh.

    Ba câu thơ kế tiếp của bài thơ lặp đi lặp lại chữ “Một mình” càng nhấn mạnh nỗi trống vắng, nhưng câu thơ chót thể hiện hết một tâm hồn lãng mạng, đầy thơ và cũng đầy bản lĩnh giữa cuộc đời:

                Một mình lại ngóng mưa rơi
                Một mình uống mãi rượu vơi lại đầy
                Một mình hết tĩnh lại say
                Ừ thôi ... Là áng mây bay ... Một mình

“Ừ thôi…Là  áng mây bay…Một mình” là tiếng thơ hóa giải mọi thăng trầm trong cuộc sống để thoát xác con tằm thành con bướm nhởn nhơ bay trong trời đất, là một tiếng thơ phá bỏ bầu trời ú ám, sấm sét bão bùng để biến mình thành đám mây một mình thong dong giữa bầu trời bao la rộng lớn. Tôi yêu câu thơ chót vì chính câu thơ ấy chứng minh được nhân cách của một người hùng, một người thơ, đã am tường lẽ sống hòa nhập vô vi. Tất nhiên gian khó còn đó, cô đơn còn đó và tác giả cũng không là đạo sĩ thì nỗi buồn vẫn còn nặng trĩu tâm hồn, nhưng không như thế thì tiếng thơ của “Một Mình” đâu làm động lòng một kẻ như tôi.

   “Một Mình” là bài thơ rất thật mà những người trẻ tuổi, những người thành công khó thấy được cái hay. Ngược lại, những người trãi qua bao biến cô, nếm trãi sự thăng trầm, khi đọc “Một Mình” sẽ thấy đó chính là ta ./.

                                                                 Châu Thạch

Thứ Hai, 1 tháng 4, 2013

Châu Thạch đọc BÔNG HOA ĐỎ, thơ Võ Văn Hoa


 BÔNG HOA ĐỎ

Tặng cô Trần Thị Hoài, 
Trường cấp II Hải Xuân 

Những giáo cụ xếp đều ngay ngắn 
Ấp ủ dần như hạnh phúc tháng năm. 
Anh đâu ngờ trong bàn tay xinh xắn 
Có điều đáng quý: một lương tâm. 
  
Giờ học hôm nay, học sinh ngoan hơn 
Đã lớn lên từ lời em giảng, 
Môn Sinh vật tưởng chừng khô lắm
Qua lòng em  nghe hạt lên mầm.

Về thăm em, anh lại mừng thầm
Cô giáo mới ra trường, tuổi nhỏ
Giữa căn phòng một bông hồng đỏ
Và  đồ dùng dạy học vây quanh

Có phải nơi đây một góc trời xanh
Với em, không gian thành tiếng hát
Và thời gian là mùa trĩu cành, sây hạt
Từ mầm non em đã vun trồng?
1977
VÕ VĂN HOA


 Lời Bình: Châu Thạch

 
Nhà thơ Võ văn Hoa
Nhà thơ Võ Văn Hoa là người có bề dày về sáng tác và cũng là người có bề dày về những tác phẩm đạt được giải thưởng. Tôi chỉ được biết thơ anh qua các trang mạng, và cũng được biết tác phong yêu thơ, yêu người của anh qua lời kể của một vài thi hữu. Đọc hàng trăm bài thơ của anh tôi cảm nhận được cái vẽ đẹp của một nhà thơ mô phạm điềm đạm và thanh bai. Tôi lại cũng cảm nhận được tâm hồn rung động như ngọn cỏ trong sương mai của mẫu người thi sĩ trong anh. Trong hàng trăm bài thơ hay của anh, bài thơ đập vào lòng tôi đầu tiên làm cho tôi rung động đến nổi không thể không viết vài cảm nghĩ về nó, đó là bài thơ tác giả viết khi còn rất trẻ ở tuổi 23, vào năm 1977: Đó là bài “ Bông hoa Đỏ”.


Đừng tìm ở “ Bông hoa Đỏ” một từ hoa mỹ, cũng đừng tìm ở “ Bông hoa Đỏ” một tứ cầu kỳ. Bài thơ nhẹ nhàng với những nhận định bình thường nhưng đã gói trọn cái vẽ đẹp thanh cao của cô giáo trẻ và cả vẽ đẹp của không gian cô sống, của thời gian cô phục vụ, của tương lai huy hoàng thuộc vùng đất, thuộc con người mà cô giáo sẽ đem đến cho nơi đây.

Với bốn câu thơ mở đầu, tác giả đã làm cho những vật dụng bình thường bày biện trên bàn, những thứ mà có thể rất nhiều người không thèm để ý, nhưng tác giả lại để ý và lấy đó làm bằng chứng một linh hồn trẻ đẹp, một lương tâm cao thượng :

          Những giáo cụ xếp đều ngay ngắn
          Ấp ủ dần như hạnh phúc tháng năm.
          Anh đâu ngờ trong bàn tay xinh xắn
          Có điều đáng quý: một lương tâm.

  Tác giả đã biến cái bàn với những giáo cụ lủng củng trở nên sáng láng, rạng ngời như một cái bàn chứa đầy hoa đẹp. Trên cái bàn ấy có gì? Trước hết là những giáo cụ dùng cho giảng dạy. Tiếp theo còn gì? Đó là những giáo cụ kia ấp ủ hạnh phúc một đời người . Hạnh phúc đến từ đâu? Đến từ bàn tay xinh xắn của em tự sắp xếp cho mình.
Tác giả CHÂU THẠCH

Và điều đáng quý hơn cả là em đã sắp xếp cuộc đời mình như em đã sắp xếp những giáo cụ đặt ngay ngắn trên bàn, nghĩa là em đã sắp xếp cho chính mình và cho tha nhân với tất cả một lương tâm. Cái bàn tầm thường bổng nhiên vừa đẹp xinh vừa đáng quý vì tác giả phát hiện trong cái tầm thường cái cao thượng của cuộc đời đặt lên trên đó.

Qua vế thứ hai, bài thơ có cái nhìn dự phóng về một buổi học :
                      
            Giờ học hôm nay, học sinh ngoan hơn
            Đã lớn lên từ lời em giảng,
            Môn Sinh vật tưởng chừng khô lắm
            Qua lòng em nghe hạt lên mầm.

Đây là một buổi học trong lớp nhưng lời thơ làm cho buổi học không gò bó trong căn phòng bình thường, cũng không sôi động ồn ào, mà trở nên thiêng liêng như một vườn cây trong quá trình nẩy mầm lớn lên và ra hoa kết trái. Tất nhiên qua một buổi học thân thể các em không thể lớn lên thấy rõ nhưng trí khôn thì có thể lớn lên trong chốc lát, vì có thể các em hiểu được bầu trời, thấy được đại dương hay nhận ra đạo lý làm người trong một giờ lên lớp. Bốn câu thơ được chia thành hai ý rõ rệt. Một nói về lời cô giáo giảng bài, một nói về sự sinh hạt nẩy mầm, từ đó dễ làm ta liên tưởng đến chiếc vòi sen tưới nước của người làm vườn khiến cho từng hạt nẩy mầm. từng cây vươn lên, từng búp hoa hé nụ diễn ra trước mắt. Sự sinh động của bốn câu thơ chẳng phải do ý thơ mới lạ , mà do ngòi bút phổ xuống trong thơ một ngôn ngữ hài hòa , khiến cho người đọc hiểu thơ bằng một giác quan khác, đó là giác quan của thơ.
    
Đến vế thứ ba của bài thơ tác giả mới giới thiệu một bông hoa đỏ đặt trên bàn, để đưa ra một biểu tượng bất ngờ dễ thương và đầy ý nghĩa:

          Về thăm em, anh lại mừng thầm
          Cô giáo mới ra trường, tuổi nhỏ
          Giữa căn phòng một bông hồng đỏ
          Và  đồ dùng dạy học vây quanh

Một bông hoa đỏ và giáo cụ để trên bàn đặt ngay giữa phòng, đó là một bức tranh tĩnh vật nhiều màu sắc. Tất nhiên bông hoa đỏ là màu chủ đạo của bức tranh nầy. Màu đỏ là màu đấu tranh, màu hy vọng và bông hoa đỏ mang toàn bộ ý nghĩa sức mạnh tinh thần của cô giáo trẻ. Bông hoa biểu tương của sức mạnh được đặt chung với những đồ dùng dạy học là hình ảnh của tri thức, nâng cao ý nghĩa, tạo linh hồn cho những vật vô tri bày biện trên bàn.

Bốn câu thơ không có một từ ngữ tôn vinh nào, chỉ vẽ ra một bức tranh đơn sơ, nhưng tự nó tỏa ra vầng ánh sáng làm căn phòng trở nên thanh nhã và nhìn đồ vật trên bàn cảm thấy thân yêu và đáng quý.

Vế chót của bài thơ là một khổ thơ rộn ràng vui vẽ với không gian êm ái và thời gian chứa đầy hạnh phúc:

        Có phải nơi đây một góc trời xanh
        Với em, không gian thành tiếng hát
        Và thời gian là mùa trĩu cành, sây hạt
        Từ mầm non em đã vun trồng?

-“ Có phải nơi đây một góc trời xanh”: Tác gỉả hỏi mà không đánh dấu hỏi là một sự khẳng định.
- “ Với em, không gian thành tiếng hát” : Không gian là bầu trời con người đang sống. Bầu trời ở đây trở thành tiếng hát chứ không phải có tiếng hát nghĩa là nguồn hạnh phúc hình thành ngay giữa thiên nhiên. Tất nhiên, thiên nhiên thì trung tính nhưng nguồn hạnh phúc từ trong tâm hồn cô giáo đã làm cho cô thấy như muôn vật bên ngoài cũng hạnh phúc như cô.
- “ Và thời gian là mùa trĩu cành, sây hạt” : Thời gian của tạo hóa thì có bốn mùa, nhưng ở đây thời gian của cô giáo chỉ có một mùa duy nhất: Mùa trĩu cành sây hạt. Đúng thế,  trồng cây thì cần thời vụ bông trái mới sinh ra nhưng trồng người  thì kiến thức đến ngay và thời gian học càng dài thì trí tuệ càng cao, như cây vừa lớn lên vừa trĩu cành sây hạt.
- “ Từ mầm non em đã vun trồng” : Cô giáo đạt được thành quả tức thì trong trí khôn của học trò mà cô giảng dạy, vì thế thời gian của cô gíáo luôn luôn là mùa thu hoạch thành quả từ hạt giống cô gieo và mầm non cô đã vun trồng.

 Tôi tự nghĩ tại sao người ta không đưa bài thơ nầy vào sách giáo khoa. Đây không phải là bài thơ có từ ngữ mỹ miều tôn vinh nhà giáo với bảng đen, phấn trắng, bục giảng và hy sinh cuộc đời trong sự hẩm hiu . Đây là một bài thơ viết ra ngoài khuôn mẫu, dùng những hình ảnh mới, sáng hơn, tươi hơn  và trẻ tung hơn, có thể cải tạo cho học sinh tránh cái lối mòn muôn đời mà cha ông để lại trong cách học văn và cách viết văn ./.
                                                         Châu Thạch

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Châu Thạch đọc THÁNG BẢY TRỜI MƯA, thơ Lê Thiên Minh Khoa

Lê Thiên Minh Khoa



THÁNG BẢY TRỜI MƯA                
       Tặng Nguyễn Đình Vinh

Biết bây giờ là tháng bảy trời mưa
Áo mỏng em tôi ướt đã mấy lần ?
Chân bước ngập ngừng lối về hoa rụng
Ngõ cũ còn hằn dấu vết người đi ?

Dạo này nhà mình còn ăn khoai mì?
Gánh than ướt đầm mẹ chắc nặng lắm ?
Chân bước âm thầm dốc dài tóc trắng
Có bóng cây nào để mẹ nghỉ không ?


Có tháng bảy nào mà  mưa không rơi
Bạn bè tôi ơi, ướt nhoẹt hết rồi
Chân bước phiêu bồng mòn khuya nhầu tóc
Thuốc lá vàng tay có  tím làn môi !

Ôi cuộc đời, mưa tháng bảy rơi rơi ! ...

LTMK 


Châu Thạch


Lời bình: Châu Thạch

     Tôi chưa gặp Lê Thiên Minh Khoa lần nào. Nhìn ảnh anh đăng trên các trang web, thấy mái tóc dài, dày, quăn, bềnh bồng trên khuôn mặt ốm, xương, tôi đoán anh là người nhiều ưu tư và lãng mạn. 

     Đọc thơ anh, tôi khẳng định được võ đoán của mình không sai trật.  

     Lê Thiên Minh Khoa là con người ưu tư và lãng mạn, đọc hết 46 bài thơ của anh đăng trên trang web Tiếng quê Hương, tôi thấy mỗi bài thơ đều chứa nhiều nối ưu tư. Thơ viết về tình yêu, thơ viết về cuộc sống, thơ viết về thiên nhiên đều có nỗi dằn vặt của những nan đề chất chứa trong lòng anh, nhưng xen vào đó tâm hồn lãng mạn của anh bàng bạc trong thơ. Bài thơ rất mới là bài “Cảm xúc miền Trung”(*) tác giả suy tư về “Những cánh đồng nhỏ nhoi”, " Những ngôi mộ bằng cái nón cời”, “Những cây lúa gầy guộc giống như dáng mẹ” và “Cái đòn gánh dãi dầu mưa nắng” của miền Trung. 

     Còn bài thơ “Tháng bảy trời mưa” tác giả nói về mưa thì ít 
mà để tâm hồn băn khoăn cho em "áo mỏng em tôi ướt đã mấy lần", lo lắng cho mẹ già "gánh than ướt đầm/chân bước âm thầm dốc dài tóc trắng/có bóng cây nào để mẹ nghỉ...",  thương cảm cho bè bạn "ướt nhoẹt hết rồi/chân bước phiêu bồng mòn khuya nhầu tóc/thuốc lá vàng tay có  tím làn môi"...  

     Thưở xưa, ở tuổi 20 tôi yêu bài thơ “Tháng sáu trời mưa” của Nguyên Sa, nhưng ở tuổi nầy, với vốn liếng ít nhiều trường đời của mình, bài thơ ấy không còn gây cảm xúc mạnh cho tôi bằng bài thơ “Tháng bảy trời mưa” của Lê Thiên Minh Khoa.

     Bài thơ mở đầu bằng bốn câu thơ sau:              
               
                 Biết bây giờ là tháng bảy trời mưa
                 Áo mỏng em tôi ướt đã mấy lần ?
                 Chân bước ngập ngừng lối về hoa rụng
                 Ngõ cũ còn hằn dấu vết người đi ?

   Người ta thấy trong bốn câu thơ nầy hình ảnh nổi cộm là chiếc áo mỏng của em ướt đầm trong mưa gió, đôi chân ngập ngừng bước trên lối về hoa rụng. Người ta còn thấy bóng mờ như ảo ảnh làm cho bức tranh đẹp nhưng buồn càng trở nên lạnh thêm bởi bóng người đi để lại dấu vết hằn trên ngõ cũ. Thật ra dấu vết người đi làm sao hằn trên ngõ cũ được mà hằn trên tâm trí người ở lại mỗi khi nhìn ra ngõ cũ hay hằn trong tâm trí tác giả mà thôi. Bốn câu thơ mở đầu ghép hình ảnh thực tại trên cái nền của quá khứ, lồng cái vẽ đẹp của đường hoa, của ngõ xưa trên bức tranh ướt át của mưa tháng bảy làm cho nỗi ưu tư nhẹ đi nhưng lại lắng xuống hằn một vết hằn trong lòng. Bây giờ, vết hằn của người đi để lại trên ngõ cũ lại ở chính trong lòng của người đi và ở chính trong lòng của người đọc bài thơ.

     Khổ thứ hai của bài thơ, nỗi  ưu tư trăn trở gia tăng thêm, nặng nề thêm và những bức tranh ảm đạm đậm nét về mẹ được vẽ lên ở đây:                                        

                Dạo này nhà mình còn ăn khoai mì ?
                Gánh than ướt đầm mẹ chắc nặng lắm ?
                Chân bước âm thầm dốc dài tóc trắng
                Có bóng cây nào để mẹ nghỉ không ?

     Không còn ngõ xưa mang kỷ niệm, không còn đường hoa dấu hoa rụng mà thực tế phũ phàng lộ diện trong bốn câu thơ: Bữa ăn toàn khoai mì, gánh than ướt đầm của mẹ, dốc dài tóc trăng và  đường vắng bóng cây. Tác giả dùng lối miêu tả xoắn ốc, cho những sự kiện tăng lên dần gây tác động nhẹ và êm để người đọc thưởng thức được toàn bộ cái mượt mà của thơ nhưng con tim lại từ  từ co lại vì nỗi ảm đạm giữa đời. Tôi không chê loại thơ viết hùng hồn, tôi không ghét loại thơ viết bi lụy, nhưng tôi yêu loại thơ nầy, như cơn gió nhẹ càng lâu càng thấm lạnh vào người, người không co ro run rẩy nhưng không phải là không làm cho trong lòng tê tái.

       Khổ thứ ba của bài thơ là vế  dành cho sự lãng mạn, là vế thơ vỗ về người đọc bớt đi giá rét trong lòng, bước vào khung trời buồn nhưng thi vị của cuộc đời hay của thi nhân:

               Có tháng bảy nào mà mưa không rơi
               Bạn bè tôi ơi, ướt nhoẹt hết rồi
               Chân bước phiêu bồng mòn khuya nhầu tóc
               Thuốc lá vàng tay có  tím làn môi !

              Ôi cuộc đời, mưa tháng bảy rơi rơi  ! ...

     Những câu thơ của khổ cuối nhắc đến bạn bè trong mưa những buổi chơi khuya, nhắc đến thuốc lá vàng tay và làn môi tím lạnh, là nhắc đến những kỷ niệm thân thương rất đẹp trong thời kỳ gian khổ và  kết tứ bài thơ bằng một câu thơ mở, rất gợi "Ôi cuộc đời, mưa tháng bảy rơi rơi! ... ". Kỷ niệm nầy càng có bạc tiền thì càng khó thể nào có được. Không còn là cảm xúc thơ ưu tư dằn vặt mà là một khổ thơ hoài cảm, hoài cảm một thời không phải vàng son trong cuộc sống vật chất nhưng có lẽ vàng son trong nhiều mặt của tâm hồn người thi sĩ. Đem sự hoài cảm trong lòng mình đưa vào khổ chót của bài thơ là làm cho bài thơ không trở nên sướt mướt theo tiến độ xoắn ốc, tăng cấp  như những lối viết thường tình, mà đưa cảm xúc quay lại ở trạng thái nhẹ nhàng như giây phút ưu tư ban đầu. Tuy thế. ở phần đầu, tác giả đặt cảnh đẹp trong hoàn cảnh buồn, còn ở phần cuối tác giả lại đặt cảnh buồn của mưa gió trong hoàn cảnh đẹp của tình bạn từng gắn bó bên nhau, từ đó cả ý thơ và cách kết cấu bài thơ đều linh động.  

     Bài thơ có ba khổ, khổ giữa mẹ gánh toàn bộ nỗi ưu tư của tác giả, hai vế kia là em và bạn với nỗi ưu tư nhẹ hơn vì có xen vào những hình ảnh kỷ niệm êm đềm. Mẹ  là trung tâm của chủ đề bài thơ, em và  bạn là khung tô điểm hai bên làm cho bài thơ  được kiến tạo hài hòa những hình ảnh thân yêu, và nhờ đó người đọc thấy tâm hồn mình êm ái . Vậy cho nên bài thơ “Tháng bảy trời mưa” có thể gọi là bài thơ trữ tình, thứ tình yêu thương trong veo, sáng láng của thơ, không gợn gì sự bi lụy khóc than làm khổ đau thêm nữa mà gợi khắc một nỗi buồn làm đẹp, làm thanh cao tâm hồn con người.                                                       

                                                                                                                                 Châu Thạch

(*) Link: Lê Thiên Minh Khoa: Cảm xúc miền Trung                    

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Châu Thạch đọc "VẪN CÒN Ở ĐÂY", thơ Vĩnh Thuyên




VẪN CÒN Ở ĐÂY

Vàm Cỏ Đông hết trong lại đục
Tựa như đời mình vẩn đục từ trong
Ai xui giòng sông bên bồi bên lở
Ai lỡ đò chiều bến đợi đò không

Trời tháng hạ ngày dài đêm ngắn
Con sóng lăn tăn bỏ dòng im lặng
Tóc chảy bềnh bồng sao đêm thức trắng
Rẽ nhánh qua đồng tóc- lúa trổ bông

Biết bao mùa vẫn ở cạnh giòng sông
Con nước lớn nước ròng rượt đuổi
Vàm Cỏ Đông được bao nhiêu tuổi ?
Em bây giờ quên tuổi mất tên

Vĩnh Thuyên



Lời bình:  Châu Thạch

Hơn nửa thế kỷ qua đã có rất nhiều tác phẩm Thơ-Nhạc viết về dòng sông và không ít tác phẩm đã đi vào lòng người. Đọc VẪN CÒN Ở ĐÂY,  thơ Vĩnh Thuyên,  như mang nặng một lời thề chung thủy cả một đời người và dòng sông Vàm Cỏ Đông quê hương anh.

    Vế một của bài thơ:

    Vàm cỏ Đông hết trong lại đục
    Tựa như đời mình vẩn đục lại trong
    Ai xui dòng sông bên bồi bên lở
    Ai lỡ đò chiều bến đợi đò không

Bốn câu thơ, một sự so sánh. So sánh đời người với dòng sông. Đời người thì nhỏ bé và ngắn ngủi so với dòng sông, nên đời người có ít tác động đến dòng sông mà ngược lại dòng sông thì ảnh hưởng đến hàng vạn đời người. Đem đời người so sánh với dòng sông là một phương pháp tá khách hình chủ để cho tầm quan trọng của đời người lên cao và dòng sông thì không nhỏ lại nhưng được nhân cách hóa thành đời người với những suy tư trăn trở.

 Tác giả dùng câu “Vàm cỏ Đông hết trong lại đục” để so sánh với đời người “vẩn đục từ trong” có nghĩa là tác giả dùng dòng sông để nói đến những thăng trầm của đời người mà cũng để nói đến những góc cạnh của cuộc sống con người trên dòng đời. Trong thể hiện cho sự tốt, đục thể hiện cho sự xấu. Trong và đục cùng có trên một dòng sông cũng giống như con người cùng có hai hình thức sống, hai tư duy, hai cảm nghĩ trong cùng một lúc hay thay đổi với thời gian. Hiện tượng của dòng sông ở đây mặc khải cho hiện tượng sống vật chất và tinh thần của con người và ngược lại hiện tượng sống vật chất và tinh thần của con người được phổ thành thơ bàng bạc trong dòng sông khiến cho cái nhỏ bé của người mang hình ảnh cao rộng của vạn vật và cái cao rộng của vạn vật lại có tư duy như của con người.

  Ở hai câu kế tiếp của vế một, nghịch lý xảy ra trong sự so sánh:

- “Ai xui dòng sông bên bồi nên lở”: Một qui luật của tự nhiên (bồi là được, lở là mất - qui luật Có & Không của tạo hóa)

- “Ai lỡ đò chiều bến đợi đò không”: Lỡ đò chiều bến đợi đò không là mất hết.

Tại sao đem cái được, cái mất của dòng sông để so với cái mất hết của đời người? Vì sao? Tôi đã suy nghĩ rất lâu câu này và tôi nghiệm ra tác giả tinh tế nhắn nhủ rằng: khi dòng sông bị lở hay bồi thì sông vẫn là muôn thuở. Đời người nhỡ một lần rồi sẽ không có lần hai, tựa như bến đò cũng đâu còn nữa, nên con người phải “lỡ đò chiều bến đợi đò không”.

Qua khổ thứ hai của bài thơ, tác giả hoàn toàn tả dòng sông, nhưng dòng sông giống như một thiếu nữ đẹp, như người mẹ hiền ôm ấp đồng bằng Nam Bộ để những lọn tóc bồng bềnh trôi về những miền đất phì nhiêu đầy lúa trổ bông.

  Miền đông nam bộ (Tây Ninh) thường mỗi năm chỉ có 2 mùa : mùa mưa và mùa nắng. Bắt đầu tháng hạ (tháng 4-5-6) ngày dài hơn đêm và mùa mưa cũng thường bắt đầu vào mùa nầy:

 “Trời tháng hạ ngày dài đêm ngắn”

Những khúc sông bồi-lở qua nhiều năm thường rẽ nhánh thành rạch mang nước vào nuôi sống cánh đồng. Để nói sự êm ả dịu hiền của dòng sông thầm lặng đem nguồn vui đến cho đời tác giả đã viết

 “Con sóng lăn tăn bỏ dòng yên lặng”
 “Tóc chảy bồng bềnh sao đêm thức trắng”.

Tại sao không phải là SAO HÔM thức trắng? Vì đầu hôm là Sao Hôm đến sáng là Sao Mai (Sao có ngủ bao giờ?) nhưng đêm thì vạn vật đều nghỉ ngơi. Sao và Đêm thức trắng bằng nhằm đề cao sự khó nhọc cực lực của sông và người để đạt được thành quả.

 “Rẽ nhánh ra đồng tóc - lúa trổ bông”.

Lúa thì trổ bông và tóc người cũng đổi màu. Với khổ thơ thứ hai nầy Vàm Cỏ Đông vừa là dòng sông,vừa là mẹ hiền, là ân nhân đã mang linh hồn nhỏ bé nhưng tinh vi của con người và cả linh hồn của đồng bằng trăng sao miền đông nam bộ. Thật dễ thương đượm chút ngậm ngùi.

Bốn câu thơ cuối của bài thơ này giống như vế kết của Đường thi, gói trọn tư tưởng của mình trong kết luận của bài thơ :

  Biết bao mùa vẫn ở cạnh giòng sông
  Con nước lớn nước ròng rượt đuổi
  Vàm Cỏ Đông được bao nhiêu tuổi?
  Em bây giờ quên tuổi mất tên.

Không biết tuổi của dòng sông là đúng nhưng tên tuổi của mình cũng quên luôn là điều nghịch lý. Đầu đề bài thơ “Vẫn còn ở đây” là một khẳng định sự hiện diện của mình nhưng cuối bài thơ có phải là sự phủ nhận chính mình không? Không, vì thật ra tên dòng sông đã hiện diện luôn bên cuộc đời tác giả, tuổi dòng sông đã gói trọn tuổi tác giả trong lòng, và chính dòng sông mênh mông rộng lớn kia thể hiện cái linh hồn nhỏ nhoi của tác giả, cho nên chính tác giả đã nhập mình vào dòng sông và nhận dòng sông cũng chính là mình. Chính xác, không phải tác giả khiêm nhường trước dòng sông, cũng không phải tác giả muốn hóa mình thành cao rộng, nhưng đứng trước cái cao rộng nầy mấy ai còn nhớ đến mình.

Đọc thơ Vĩnh Thuyên như nhìn một bức tranh nhỏ nhưng bức tranh lại vẽ một dòng sông đẹp, như nghe một bài nhạc ngắn, điệu nhạc nói về thân phận kiếp người. Tranh và nhạc trong thơ Vĩnh Thuyên là nỗi suy tư mà tôi tưởng tượng như nếp nhăn vẫn hằn luôn trên trán của anh vậy

Anh Vĩnh Thuyên thân mến! Sẽ có một ngày tôi về Tây Ninh cùng nhau đi tìm TUỔI cho dòng sông Vàm Cỏ Đông anh nhé.

 Châu Thạch

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013

LỜI BÀN VỀ MỘT TUYỆT PHẨM THƠ PHẠM NGỌC THÁI - Nguyễn Đình Chúc

Marilyn Monroe
      


                         
 VÁY THIẾU NỮ BAY
Thơ Phạm Ngoc Thái



Váy thiếu nữ bay để ngỏ

Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong

Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở

Tìm vào chỗ ấy của em...



Bờ bãi con người em trổ hoa trái ngọt

Đến đế vương cũng khum gối cầu mong

Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc

Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm...



Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại

Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian

Có phải đó khúc quân hành nhân loại?

Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh.



Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!

Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh

Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất

Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang...



                           Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai" tr.327

                                Phạm Ngọc Thái

                     



          Có nhà thơ nào đã ví "cái" của người thiếu nữ như một cổng trời, qua cổng trời đó là vào một động thiên thai. Hay như cách tả của bà Hồ Xuân Hương về của quí của chị em mới thật là trăm hình vạn trạng, nhiều bài làm ta phải sởn gai óc. Thí dụ trong bài "Động Hương Tích":

                Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm

                Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom

     Khi thì bà mượn cái quạt để tả về "chỗ ấy":

                Chành ra ba góc da còn thiếu

                Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa...     

     Giờ ta đến với thơ của Phạm Ngọc Thái ở bài "Váy thiếu nữ bay", anh đã ví cái của em như:

                Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong

     Đến thiên nhiên cũng phải ngưỡng mộ mà run rẩy:

                Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở

                Tìm vào chỗ ấy của em...

     Cũng đúng thôi, ngay cả trái tim người khi cảm xúc còn rung động huống hồ thiên nhiên? Nhưng điều mà tôi muốn nói ở đây, viết ra câu thơ như thế quả là tác giả đã mạnh bạo. Từ câu trước dùng hình tượng rất gợi cảm "gió réo rắt, nắng bồn chồn", đến câu sau chuyển ngay sang cách nói có hơi hướng trần tục: Tìm vào chỗ ấy của em.../-  đọc lên ta thấy gai gai giật mình, nhưng ngẫm kỹ lại thì sướng thơ. Chính viết thế đã tạo thêm sự hấp dẫn, dần dần thấy hay. Có phải chăng đó cũng là một thi pháp trong thơ hiện đại để sáng tác thơ vào lòng bạn đọc? Riêng tôi cho rằng viết thế là thích.

     Sang đến khổ thứ hai thì thơ bắt đầu mang theo tính triết lý:

                  Bờ bãi con người em trổ hoa, trái ngọt

                  Đên đế vương cũng khum gối cầu mong

      Trong nhân sinh quan ta thấy rõ ràng nhà thơ đứng về phía nhân gian, ca ngợi tình yêu sự sống ở  chốn cộng đồng. Câu thơ: Bờ bãi con người em trổ hoa trái ngọt/-  Nghĩa là vậy. Ta thường nói, sở dĩ tác phẩm của Nguyễn du sâu sắc, bất hủ... bởi Người đã có hàng chục năm phải sống lăn lộn nơi dân dã, thấu hiểu nỗi tình kiếp chúng sinh mà viết nên... Kiều! Tôi nghĩ một quan điểm rất cơ bản trong thi ca chính là thái độ nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ như thế nào? nó có ý nghĩa rất quyết định tới tấm vóc của một bài thơ hay cũng như các tác phẩm văn học nói chung.

      Xin trở lại bài Váy Thiếu Nữ Bay. Câu thơ vừa nói trên ý rằng, ở nơi "bờ bãi con người..." đó em như hoa trái của sự sống. Sự sống mà không có hoa trái thì chẳng có gì hết, sẽ chỉ như là cái xác chết. Sau đó để làm rõ hơn về giá trị bất hủ, nhà thơ viết: Đến đế vương cũng khum gối cầu mong/-  Vậy là hơn một lần nữa tác giả lại bộc lộ quan điểm: cái ấy của em còn cao hơn, đáng giá hơn hàng bậc đế vương kia!

      Sau đó nhà thơ vẫn tiếp tục miêu tả nhưng ở mức độ rộng cao hơn:

                             Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài. điện ngọc

                             Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm...

      Dùng hình tượng ví như "lâu đài, điện ngọc" ta cũng dễ hiểu. Cụ Nguyễn Du cũng đã chẳng từng ví của Kiều:

                           Dày dày sắn đúc một toà thiên nhiên

      Còn về ý nghĩa tiến hoá vạn vật trong vũ trụ hay của thế giới nhân quần, khởi thuỷ và muôn năm cũng là ở  trong cái ấy mà ra cả. Sự sống của nhân loại cũng như văn minh, tiến bộ thế giới... đều phải bắt đầu từ đấy, về cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Còn tác giả muốn mượn cách nói như thế để hàm ý những gì nữa thuộc trong lĩnh vực chính trị xã hội... thì có lẽ rồi đây đời cũng còn cần phải bàn thêm?

      Nghĩa là câu thơ: Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm/-  đã mang theo cả ý nghĩa xã hội và tính vũ trụ của thi ca. Sang khổ thơ thứ ba:

                             Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại

                             Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian

      Cái mà đã dấu trong chiếc váy bay của người thiếu nữ lại bao trùm lên cả hồn thời đại, làm say đắm thế gian... không phải chỉ bây giờ, mà từ xa xưa đến mai sau vẫn thế. Rồi tác giả buông ra một câu hỏi:

                           Có phải đó khúc quân hành nhân loại?



      Để anh chốt lại trong câu thơ kết đoạn:

                            Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh



      Thì từ thuở thiên thai khi mà người đàn bà còn chưa biết mặc váy, cái đó đã có rồi. Tất nhiên nó mãi mãi là một bích phẩm bất hủ nhất của cả tạo hoá lẫn xã hội con người. Cho dù tác giả không dụng ý nhưng thơ đã mang màu triết học, nghĩa những câu thơ kết vào nhau rất chặt chẽ.

     Sang khổ thơ cuối cùng của bài tác giả đã tung ra một lời phán quyết, dĩ nhiên bằng ngôn ngữ thi ca:

                           Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!

                           Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh

                           Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất

                           Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang...

      Câu thơ cuối đã khoá lại toàn bộ bài thơ. Chính nó mang theo một lời triết lý có ý nghĩa xã hội, hàm ý về một phủ định nào đó? Nhà thơ phản ứng lại những tà đạo hoặc giả tạo về mặt chính trị còn đang ẩn trong thể chế xã hội mà viết như thế chăng? Xin lần lượt phân tích đôi nét. Bước đầu tác giả đưa ra một sự lý giải về sự sống:

                          Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh

      Nghĩa là từ cá nhân tới xã hội phải nhờ có "cái ấy" mới có thể tồn tại và phát triển. Tất nhiên cách nói trong thi ca cũng chỉ có ý nghĩa biểu tượng. Như tôi đã nói trên, hàm ý thi ca Phạm Ngọc Thái trong bài thơ này luôn luôn mang theo tính phản biện có ý nghĩa xã hội. Cũng có số người cho rằng: "Phạm Ngọc Thái hơi cực đoan" - Tôi không biết quan niệm về anh như thế đã đúng chưa?... Nhưng có lẽ đó cũng là một điểm xuất phát để tạo nên ý nghĩa tột đỉnh trong tình thơ này của anh! Tác giả đã phát triển sự biện luận ấy thế nào: Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất/- Nói là phàm tục, cũng là phàm tục. Nhưng nếu nói "cái đó" thiêng? thì rõ ràng cũng có ý nghĩa thiêng. Chẳng thế mà nhà thơ Nga M.Lermôntốp đã viết những câu thơ bất hủ về tình yêu với người đàn bà:

                       Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng

                        Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.

     Bởi vì với ý tưởng chân chính lòng ham muốn cái đó là đỉnh cao của sự thăng hoa tột cùng trong tình yêu con người. Cái hạnh phúc vô giá, niềm đam mê vô tận, nó vừa tạo nên những sướng vui đồng thời cũng là nguồn gốc của nỗi đau khổ. Nó mang đến ý nghĩa thánh thiện, đức nhân ái và bao dung. Nó chính là hạt nhân của tình lứa đôi. Cho nên Puskin đã nói một câu nổi tiếng, rằng: "Chỉ có tình yêu mới đẩy lùi tội ác"! Ý nghĩa đều nằm trong câu thơ Phạm Ngọc Thái đã viết:

                        Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất

      Ở đây tác giả cũng chỉ nhấn mạnh về tình yêu gái trai nơi nhân gian, mà anh gọi là "bờ bãi con người...". Như trên đã nói, câu cuối cùng đã chốt lại cả bài thơ:

                       Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang...

      Đó là ngòi bộc phá nổ để bảo vệ cho toàn bộ ý tưởng, sự biện luận đến các hình tượng của bài. Nào là: Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại, Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm, Mênh mông bàu trời say đắm thế gian, Một khoảng trời nghiêng ngửa hoặc Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài điện ngọc -  Chỉ để bảo vệ một chủ thuyết của tác giả là ca ngợi cái kiệt tác mà tạo hoá hay thượng đế đã sinh ra trên người đàn bà!



     Thì từ khi có vũ trụ cùng thế giới con người đến nay, đã có cái gì được coi là cao hơn, vĩ đại hơn cái của đàn bà ấy đâu? Dù nhân loại có tiến triển đến hàng triệu năm nữa, nó vẫn vĩ đại nhất! Cho nên một bài thơ hoàn hảo, đầy đủ phẩm bích để ca ngợi về cái kiệt tác của thượng đế ấy, hẳn đó phải là một tuyệt phẩm hay một tuyệt tác thi ca!



      "Váy thiếu nữ bay" xứng đáng là một đài thơ. Tôi tin nó sẽ trở thành một thi phẩm không kém phần bất hủ trong thế giới thi ca của văn đàn.



   

Nguyễn Đình Chúc

Đ/C:   Ngõ 44, phố Hào Nam, Hà Nội.
chucdinh012@gmail.com