Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Bá Trình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Bá Trình. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

NGỌN LỬA BẾP VĨNH CỬU - Truyện ngắn Nguyễn Bá Trình





    “Tu li… tu li… “ củi đây!

Người thương binh từ trong trại an dưỡng bước ra. Đầu đội chiếc mũ tai bèo, trên người anh là bộ quân phục màu xanh lá cây đã bạc mầu. Lưng mang chiếc ba lô con cóc, có cài chiếc bi đông nước ở thắt lưng. Người  thương binh tên gì không ai biết. Chỉ biết rằng, sáng sáng khoảng tám giờ , anh bắt đầu bước ra khỏi nhà an dưỡng và bắt đầu một cuộc đi bộ dọc theo đường phố. Anh dùng tay bóp môi dưới tạo thành cái còi và hít vào thật sâu, rồi thổi một hơi dài phát ra tiếng kêu tu li, tu li, y như tiếng con chim tu huýt bằng đất nung mà trẻ con thường thổi. Từ đó trẻ con trên đường phố mà anh thường đi qua gọi anh là chú Tu Li.

-Chú Tu Li , chú  Tu Li! Củi đây nầy.

Nghe tiếng anh thương binh huýt gió từ xa, một cháu gái chạy từ trong nhà ra mang cho anh một que củi nhỏ.

Anh Tu Li nhìn cháu bé cười ngô nghê rồi nói:-Củi, củi nhiều quá.

Vừa nói anh vừa dừng lại mở chiếc ba lô con cóc ra bỏ que củi vào. Trong ba lô của anh cũng toàn là những que củi vụn, nói cho chính xác là những cọng rác anh nhặt dọc đường.

Anh thương binh cẩn thận đặt que củi vào ba lô giống  như người ta đặt một cái gì đó dễ vỡ. Tu li, tu li, anh lại bước đi và bắt đầu huýt gió.

Trên đường đi nhiều đứa bé đã cho anh Tu Li củi.  Có nhiều đứa trẻ nghịch ngợm nhặt một cọng kẽm gai chạy đưa:

-Chú Tu Li, củi  đây nầy.

-Tu li… tu li.... Củi nhiều quá. Người thương binh lại mở ba lô bỏ khúc kẽm gai vào:

-Củi nhiều quá.

Ti li, tu li. Tiếng sáo miệng của anh thương binh lanh lảnh trên các đường phố vào những buổi sáng tạo ra một âm thanh than quen vui vẻ, nhất là đối với các trẻ nhỏ.

Có  một bận bà hàng xóm  biết cậu bé cạnh nhà mình học lớp sáu nhưng rất tinh nghịch, cậu bé đã từng đưa cho anh thương binh những cọng kẽm gai sắc nhọn.Thấy quả tang bà gọi đứa trẻ lại quở trách giọng nhẹ nhàng:

-Chú ấy đang đi kiếm củi, sao cháu không mang củi ra cho chú ấy mà lại đưa cọng kẽm gai? Chú ấy bỏ vào ba lô nhỡ móc rách áo quần chú ấy thì sao? Không chừng lại làm rách da chú ấy nữa đấy.

_Chú  ấy điên mà cô. Chú có nấu ăn được đâu mà cho củi?

-Chú  ấy không điên đâu. Bà hàng xóm nói.

-Không. Chú ấy điên thật cô ạ. Chú ấy ở trên khu an dưỡng thương binh cháu biết mà!

-Cô  đã nói chú ấy không điên.Chú ấy chỉ lẫn trí thôi.

-Lẫn  trí khác với điên sao hở cô?

-Người lẫn trí là người không kiểm soát được trí nhớ của mình. Mọi việc người ấy chỉ nhớ mang máng thôi. Thực hư không phân biệt rõ ràng. Như chú thương binh nầy còn biết đi nhặt củi. Nhưng lại không phân biệt được cái gì đốt cháy cái gì đốt không cháy. Chú ấy còn nhớ mang củi về nhà nhưng không nhớ là mình phải dùng cái gì để mang củi. Cháu thấy chú ấy có phải vậy không?

-Còn người điên thì sao hở cô.

-Cô  không biết giải thích sao cho cháu rõ nhưng đại loại  đó là những người mất hết trí nhớ hoàn toàn. Đứa trẻ lắc đầu có vẻ không phân biệt được. Bà hàng xóm nhìn cậu bé cười:

-Thôi thì cháu chỉ cần hiểu rằng; với những người như chú ấy hoặc là người điên đi nữa thì các cháu cũng không được chọc ghẹo mà phải tìm cách giúp đỡ họ. Nói vậy thì cháu hiểu chứ?

Đứa trẻ gật đầu. Nhưng rồi nó lại hỏi:

-Mà  sao chú Tu Li không nhặt gì mà chỉ nhặt củi vậy cô? Có lần cháu để que củi dằn trên tờ giấy bạc hai ngàn đồng đặt ngay trên đường chú ấy đi qua; nhưng chú chỉ nhặt que củi mà không nhặt tờ giấy bạc.

Đứa bé hỏi lần nữa-Sao vậy cô?

Người đàn bà im lặng suy nghĩ một lát rồi trả lời:

-Cô không biết chắc chắn lắm nhưng có lẽ hình ảnh còn sót lại trong trí nhớ mơ hồ của chú ấy là những bếp nấu. Nghĩa là trước khi chú ấy bị một vết thương làm mất trí nhớ, công việc của chú là nấu ăn cho bộ đội. Có thể là như vậy, cô chỉ đoán thôi, và chú ấy đã nhập tâm với công việc của mình. Cũng như cháu vậy, ngày nào cháu say sưa với một trò chơi  nào đó thì lúc ngủ cháu cũng mơ thấy cháu chơi trò chơi đó. Có lúc nào cháu gặp trường hợp như thế không?

Đứa bé trả lời một cách thích thú:

-Dạ có. Cháu luôn như vậy.

-Đấy đấy. Cô  nghĩ chú ấy cũng đang trong một giấc ngủ  mê đấy.

-Vậy thì có lúc nào đó chú ấy tỉnh lại phải không cô?

-Cô tin như vậy. Để chú ấy mau tỉnh lại thì mọi người phải thương yêu giúp đỡ cho chú. Cháu phải chọn những que củi nào không có gai đem cho chú với những lời nói thật đáng yêu. Chẳng hạn cháu nói với chú ấy rằng- Chú ơi, chú gắng nấu thức ăn cho ngon để bộ đội ăn cho no mà đánh giặc nhé. Hoặc khen chú- Chú ơi chú nấu thức ăn ngon lắm, ai cũng khen cả.Vậy là chú ấy thấy vui mà mau thoát ra khỏi cơn mê muội. Cháu có làm vậy được không?

-Dạ nhất định cháu làm được, cháu còn giả bộ nhai thức ăn chú ấy nấu một cách ngon lành nữa kia.

Người đàn bà hàng xóm bật cười:

-Cháu ngoan lắm.

                                             *

Ngừoi đàn bà hàng xóm của cậu bé tên Vũ Thị Thanh, năm  nay đã trên bốn mươi  tuổi, ở tại số nhà 12 đường Nguyễn Huệ. Chị Thanh có chồng là bộ đội. Ngày đất nước thống nhất, những người chồng, người cha, người con, người anh… của các gia đình lần lượt trở về. Có người thì trở về nguyên vẹn. Người thì trở về không còn nguyên vẹn. Có người trở về chỉ là một nắm xương. Nhưng tất cả những gia đình đón người thân trở về trong những trường hợp như vậy, chị nghĩ, ai cũng may mắn hơn chị. Bởi chồng chị đã không bao giờ trở về- Dù anh ấy trở về chỉ là một nắm xương thì tôi cũng yên tâm. Chị tâm sự với mọi người như vậy. Một đồng đội của chồng chị sau ngày nước nhà thống nhất đã tìm đến nhà  báo tin cho chị rằng chồng chị đã hy sinh năm 1974 ở chiến trường Đức Cơ. Với một câu nói mà lúc ấy chị thấy không còn có Trời, không còn có Đất, không còn có loài Người nữa. Câu nói chỉ vẻn vẹn có mấy chữ mà sao ghê gớm đến thế-Đồng đội không tìm được xác anh ấy!

 Trời đâu rồi? Đất đâu rồi? Mọi người ở đâu hết? Sao không ai biết anh ấy ở đâu mà mách bảo giùm tôi?

Vậy mà chị  cũng sống đến được bây giờ.

Vào khoảng thời gian khi làn sóng tâm linh nổi lên ào ạt khắp mọi nơi trên một đất nước mà đào ở đâu cũng gặp xác người, chị không tin nhưng cũng phải tin vào một hiện tượng đồng bóng. Chị nhờ một nhà ngoại cảm tìm xác chồng. Nhà ngoại cảm đã xác định đúng nơi  người chồng của chị ngã xuống, một vị trí núi non trùng điệp thuộc vùng Ba biên giới. Ngày người ta đưa hài cốt về chị đã khóc ngất. Nhưng  sau khi cải táng anh vào nghĩa trang liệt sĩ, chị lại có một cảm giác lạ lùng rằng hài cốt liệt sĩ ấy không phải là hài cốt chồng chị. Chị nghĩ rằng chồng mình chưa chết. Nghĩ vậy  nhưng chị không nói ra với ai. Lấy ngày bốc mộ làm ngày mất. Vào ngày đó hàng năm chị vẫn cúng giỗ nghiêm túc. Và chị van vái với vong hồn người chết rằng, nếu anh không phải là chồng chị thì cứ xem chị như một người thân trong gia đình của liệt sĩ. Rồi mấy mùa giỗ qua đi, lòng chị cũng nguôi ngoai dần và chị xem như chồng mình cũng đang nằm đâu đó trong nghĩa trang liệt sĩ dưới một ngôi mộ không tên hoặc với một cái tên khác.





                                                                     *\

Tu li …tu li.... Người thương binh bước ra khỏi trại an dưỡng, vừa đi vừa bóp môi huýt gió.   –Củi đây! Anh ta lại nhặt một que rác bỏ vào chiếc ba lô đeo sau lưng. Những đứa trẻ trên đường phố nghe tiếng huýt gió chúng cũng nhại theo:Tu li, tu li, rồi chạy vào sau bếp  nhặt một que củi nhỏ: -Chú Tu Li ơi, củi đây!

Sáng nay anh thương binh không mặc bộ đồ trận sờn vai như mọi hôm. Anh mặc một chiếc áo ấm  mầu cà phê đã bạc lỗ chỗ từng đám. Đôi mắt mờ đục, nước da hơi xanh tái do khí tiết của những ngày trở đông. Miệng anh luôn mỉm cười, đôi khi cái cười cũng  vu vơ, chẳng thể hiện niềm vui hay nỗi buồn. Lâu lâu anh lại cúi xuống nhặt một cái gì đó. Cần mẫn và chịu đựng. Có lẽ câu chuyện giữa bà hàng xóm và cậu bé tinh nghịch hôm nọ đã đến tai mấy đứa trẻ khác, nên sau đó chúng không mang cho anh thương binh những cọng kẽm gai hoặc những que rác dơ bẩn. Chúng còn nói về anh bằng những hình tượng thật đẹp đẽ,  có lẽ do cha mẹ chúng hay người thân nói cho chúng nghe.

Một đứa bé  nói với bạn nó:

-Mầy có biết chú Tu Li nhặt củi để làm gì  không?

-Thì  chú ấy về nấu ăn chứ còn làm gì  nữa.

-Vậy thì bếp của chú ấy đặt ở đâu mầy biết không?

-Ở  trung tâm an dưỡng chớ còn ở đâu.

-Sai.

-Vậy thì ở đâu?

-Ở trong trái tim chú ấy.

Đứa trẻ kia phá lên cười như nắc nẻ. Nó nói:

-Bếp mà đặt trong tim thì cháy trái tim mẹ nó rồi còn gì.

Cậu bé nầy cãi lại:

-Vậy mà không cháy đâu nghe!

-Sao mầy biết?

-Thì chú ấy còn sống sờ sờ ra đó.

Đứa trẻ kia cứng họng nó cảm thấy như mình bị mắc lừa, nó lại phá lên cười, rồi hỏi lại:

-Thôi được.Tao hỏi mầy là sao mầy biết chú ấy đặt bếp trong trái tim chú ấy? Giỏi trả lời đi.

Cậu nầy tỏ ra thành thạo, khi quả quyết như một người lớn:

-Sao lại không biết. Tao còn biết nhiều điều hơn nữa kia.

-Mầy biết gì kể  tao nghe thử.

-Chú ấy làm anh nuôi. Mầy có biết anh nuôi là gì không?

-Không.

-Anh nuôi là anh bộ  đội chuyên đi chợ nấu ăn cho những anh bộ  đội khác.

-Sao nữa mầy kể  tiếp đi.

-Chú anh nuôi ấy đi theo đoàn bộ đội dọc dãy  Trường sơn. Bộ đội đóng quân tại đâu thì chú ấy đào bếp nấu ăn tại đó.

-Sao mầy bảo chú ấy đặt bếp trong tim chú ấy?

-Chứ  sao nữa, tao kể chưa hết mà.Cho đến một hôm  đơn vị chú ấy bị địch vây đánh, chú  ấy bị một vết thương đâu đó trên đầu. Trước khi bị rơi vào tình trạng lẫn trí, chú đã kịp thời dời cái bếp vào trong trái tim chú ấy. Từ đó chú không quên tiếp tục công việc của mình bằng cách nhóm lửa lên trong trái tim của chú.Và cứ thế ngày ngày chú ấy vẫn đi kiếm củi.

Đứa bé kia vỗ tay:

-Hay quá ta! Y như chuyện cổ tích thần thoại. Ai kể cho mầy nghe hay dữ vậy?

-Cô Thanh ở cạnh nhà tao kể. Mầy có tin không?

-Ừa,  giờ thì tao tin.

                                                        *



    Cũng như mọi hôm, anh thương binh đi nhặt củi dọc theo đường Nguyễn Huệ, đến khúc cua rồi tiếp tục đi thêm một đoạn nữa là đến ngôi nhà mang số 12. Anh dừng lại. Anh đâu có biết số nhà, chỉ theo thói quen, đến đó bao giờ anh cũng thấy một lọn củi , gồm mươi que củi nhỏ, sạch sẽ và được chặt đầu đuôi gọn gàng, bỏ sẵn trước thềm ngôi nhà số 12. Nắm củi được gom lại và bó chặt lớn không quá bắp tay. Vậy là anh thương binh bước đến mở ba lô bỏ nắm củi vào. Ba lô đã đầy củi, anh không đi tiếp nữa và miệng cũng không huýt sáo tu li tu li. Anh quầy quả trở về trung tâm an dưỡng một cách vội vã như thể sợ muộn một việc gì đó.



Một buổi trưa mùa đông nọ, chị Thanh đi làm về chị thấy nắm củi mình đặt trước hiên buổi sáng vẫn còn nằm yên ở đó. Lòng chị thấy buồn. Nhưng theo thói quen không bỏ được, chị lại đặt thêm vào chỗ ấy một nắm khác, hy vọng trưa đó về nhà chị sẽ không còn thấy lọn củi nào nữa. Nhưng không như chị nghĩ. Chị chưa tới nhà đã nhìn trước hiên, vẫn còn hai nắm củi nằm lạnh lẽo ở đó.

Và  rồi về sau, cứ thế, mỗi buổi sáng trước hiên nhà chị Thanh lại có thêm một nắm củi.

    Một hôm cùng mùa đông năm ấy, người đi đường không thấy những nắm củi trước hiên nhà chị Thanh nữa. Và ngôi nhà số 12 đường Nguyễn Huệ cũng đã khòa cửa. Và cũng từ đó, bọn trẻ con đường Nguyễn Huệ không còn nghe tiếng húyt gió tu li tu li của chú thương binh vào những buổi sáng mùa xuân đẹp trời cũng như những ngày mùa đông lạnh lẽo. Người lớn thì chẳng ai để ý gì, họa chăng một lúc nào đó người ta chợt nhận ra và hỏi nhau: Sao mấy hôm nay không thấy người thương binh điên điên tỉnh tỉnh đi nhặt củi nữa nhỉ, chắc anh ta chết rồi. À mà nầy, có ai biết chị Thanh đi đâu không nhỉ. Tự nhiên đang làm việc bên hội Phụ nữ nửa chừng rồi khóa cửa nhà bỏ đi. Chẳng ai biết chị ấy đi đâu.

Thế  là câu chuyện về anh thương binh nhặt củi, câu chuyện về những nắm củi đặt trước hiên căn nhà số mười hai, cùng câu chuyện về cô chủ căn nhà số mười hai ấy đột nhiên bỏ đi đâu không ai biết, dần dần đã đi vào quên lãng của mọi người trên đường phố Nguyễn Huệ. Nhất là đám trẻ trên đường phố đó. Thế mà chúng lại mau quên hơn ai cả.

                                                                  

                                                                  *

Tại bệnh viện thần kinh X125, có một cặp vờ chồng nuôi nhau đã mấy năm nay. Người vợ nuôi người chồng mắc bệnh tâm thần nhẹ. Trong hồ sơ nhập viện người đàn ông mắc bệnh tâm  thần, tên là Từ Lí. Theo như người vợ kể lại với thân nhân của các người bệnh, chồng chị là một quân nhân, trong một trận đánh vào cuối tháng hai năm 75 anh bị thương ở đầu và mất trí nhớ từ đó. Người ta chỉ biết vậy thôi, không ai hỏi thêm gì về cặp vợ chồng ấy nữa. Người vợ chừng khoảng trên dưới bốn mươi. Nhìn những đường nét trên mặt người đàn bà người ta cũng đoán  được chị ấy có một thời là cô gái xuân sắc. Bởi một vài nét trên khuôn mặt chị, thời gian đã tỏ ra bất lực hay vị một chút tình riêng nào đó mà không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của  Thượng đế giao cho: Hãy trừng phạt Adam và Eva bằng cách làm cho nó phải đau khổ khi nhìn thấy khuôn mặt con cháu nó lúc về già phải biến đổi một cách xấu xí! Nhờ vậy mà khuôn mặt người đàn bà dù ở tuổi trên bốn  mươi mà vẫn còn giữ được nét khả ái và quyến rủ. Còn người chồng thì không ai đoán được tuổi. Cũng không hình dung ra được khuôn mặt người ấy lúc trẻ như thế nào.

  Phòng điều trị của người chồng thuộc tầng trệt của dãy lầu ba tầng. Nó nằm phía góc trái. Trên sân bệnh viện ngay trước cửa phòng, có một cây đa Ấn độ tỏa nhánh rậm rạp mát mẻ. Hai vợ chồng họ ở chung phòng với một bệnh nhân là một cậu con trai trạc mười tám, hai mươi tuổi. Được cả cha mẹ cậu thay nhau chăm sóc. Cậu thanh niên mỗi lần lên cơn động kinh là trốn khỏi bệnh viện, khiến cha mẹ cậu hết sức vất vả tìm kiếm. Có lần phải nhờ cả Công an khu phố tìm giúp.

Nếu chỉ việc người vợ săn sóc nuôi chồng quá chu đáo, thì ở bệnh viện nầy không phải chỉ có một mình chị. Người ta chú ý đến câp vợ chồng nầy bởi cách chìu chồng của người vợ. Chìu chồng một cách quá đáng, người ta nghĩ như vậy. Việc chìu chồng hoặc chìu vợ thì chẳng có gì lạ. Nhưng chìu một người bệnh tâm thần dù người bệnh là chồng, hoặc  vợ hoặc con cái của mình là điều quá khó. Bởi đòi hỏi cùa người bệnh đôi khi hết sức vô lí, ai mà làm theo cho được!

Ngoài việc cơm nươc, giặt giũ, nhận thuốc, phân thuốc cho chồng uống hàng ngày, người đàn bà còn đóng vai một người tình như lúc hai người chưa cưới. Buổi sáng, buổi chiều chị quàng vai anh dạo bước trong sân bệnh viện. Có khi chị cùng chồng đi lang thang cùng anh khắp các con đường vắng vẻ quanh bệnh viện. Được cái là anh hiền lành, ngù ngờ như một đứa trẻ. Không la hét, không đập phá cũng không tìm cách trốn khỏi bệnh viện như cậu thanh niên cùng phòng. Có điều là người chồng mắc một chứng ám thị nào đó mà sinh ra thói quen kì cục, là đi đâu cũng mang một chiếc ba lô con cóc sau lưng, vừa đi vừa   nhặt những que rác anh ta thấy dọc đường bỏ vào ba lô, miệng mỉm cười nói: Củi nhiều quá.Vậy mà chị không can anh, chị còn nhặt giúp anh những que củi rồi bỏ vào ba lô cho anh. Chị cũng cười:-Nhiều củi quá phải không anh? Người đàn ông gật đâu:-Củi nhiều quá.

Chị  bó những nhánh củi nhặt được thành từng lọn nhỏ và xếp ngay ngắn dười gốc cây đa trước cửa phòng, nơi chị dùng làm bếp nấu ăn. Chị đào đất lên và sửa nó lại thành cái bếp mà bộ đội thường gọi là bếp hoàng cầm được dùng trong các chiến dịch.Tối đến chị ngồi cùng anh dười gốc cây lần lượt đôt những bó củi. Ánh lửa lập lòe in hình bóng anh chị lung lình trên mặt đất. Chị hỏi anh:

-Anh có biết bóng của anh là cái nào không?

Người đàn ông chỉ vớ vẩn. Chị cười và chỉ  lại cho anh. Sau đó chị hỏi lại. Mấy lần nhưng người đàn ông vẫn chỉ không đúng.

Một  đêm khác khi đốt lửa xong chị hỏi:

-Đêm  nay anh nấu mấy lon gạo?

Anh cười ngô nghê:

-Ba lon.

Chị  lại hỏi:

-Đơn vị anh mấy người mà anh chỉ nấu ba lon?

Anh lại cười ngu ngơ:

-Một người.

Chị  phá lên cười:

-Đơn vị  chỉ có một người làm sao  mà  đánh giặc? Mà thủ trưởng anh tên gì?

Anh chỉ cười.

Một  đêm khác khi đốt lửa lên chị hỏi anh:

-Đốt lửa như thế nầy anh không sợ địch phát hiện sao?

Anh nhìn lên vòm cây đa tối om rồi lắc đầu.

Chị  nói:

-Lá  đa che kín địch không thấy phải không?

Anh lắc đầu chẳng nói gì. Có lúc chị hỏi tên anh bằng một thứ giọng của cấp trên ra lệnh:

-Đồng chí tên gì? Báo cáo cho tôi biết?

Anh hơi hốt hoảng một chút rồi ngồi lặng im.

Những câu chuyện như thế vẫn diễn ra bên ánh lửa lậplòe dưới gốc cây đa trước sân bênh viện, hết đêm nầy đến đêm khác. Thân nhân của những người bệnh đi ngang qua thấy vậy lúc đầu họ lấy làm lạ rồi sau cũng quen dần chẳng ai để ý.



   Một buổi sáng chị dậy sớm lúc anh đang ngủ. Chị phải về quê lấy gạo và mang thức ăn lên. Biết tính anh không quậy phá, chỉ đi kiếm củi xong là về phòng nằm. Hồi ở trung tâm an dưỡng anh vẫn sống một mình như vậy. Chị gởi anh lại  cho cha mẹ cậu thanh niên nhờ nhận thuốc và thức ăn tối cho anh. Sáng mai chị sẽ trở lại.

Tối  đó không có chị, như thói quen anh ra ngồi dưới gốc cây đa. Anh mang tất cả những bó củi chị chồng dười gốc cây ra đem đốt một lần, anh còn lấy chiếc bếp dầu mà chị dùng để nấu ăn để gần đó, tưới hết dầu hỏa lên rồi châm  lửa. Ngọn lửa cháy lan ra chiếc bếp dầu và gặp can dầu lửa nó phụt cháy dữ dội. Anh dùng tay đập, hai bàn tay anh cháy bỏng, cháy lan lên cả tay áo, nhưng ngọn lửa càng bùng to. Anh hốt hoảng phóng vào phòng trực bệnh viện đập cửa miệng thét lên- Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng ơi cháy to rồi.

Chị  y tá trực hốt hoảng vùng dậy, hỏi trong cơn ngái ngủ:

-Cái gì vậy?

Anh la lên:

-Thiếu tá Hoàng Trung tiểu đoàn trưởng đâu. Nhờ đồng chí báo cho đồng chí ấy biết đang có cháy to. Kia kìa.

Anh chỉ tay qua gốc cây đa, ngọn lửa cháy  hết dầu đang có vẻ tàn xuống.

Người y tá chợt hiểu, nắm ngay cơ hội:

-Đồng chí tên là gì để tôi báo cáo?

-Tôi là Phan Cải, anh nuôi của tiểu đoànX. Nhờ đồng chí báo cáo… tôi vô ý để lửa…

Người nữ y tá vui mừng quàng vai anh thương binh và nói:

-Anh bình tĩnh đi anh Phan Cải à. Lửa hết cháy rồi đấy.



      Chị đi lấy gạo và thức ăn ở quê lên. Mới bước vào cửa bệnh viện thì cô y tá từ phòng trực chạy ra và reo lên:

-Chị Thanh ơi, mừng cho chị, chồng chị đã tỉnh lại rồi.



                                                      *



    Ngày 7 tháng7 năm 1980, anh Cải và chị Thanh rời bệnh viện tâm thần. Chị Thanh mang một bó hoa cùng anh lên tặng bác sĩ Giám đốc.

Giám  đốc bệnh viện bắt tay chị Thanh vui cười nói:

-Chị  là người vợ  tuyệt vời nhất đấy chị Thanh ạ. Tôi chúc anh chị sống những ngày còn lại thật hạnh phúc.

Chị Thanh mỉm cười:

-Cảm ơn Bác sĩ Giám đốc. Nhưng  anh ấy không phải chồng tôi, bác sĩ à.



                                                          7/7/ 2002 NBT

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

LINH HỒN MẦU TÍM - Truyện ngắn Nguyễn Bá Trình






       Khu đất Mò Ó thuộc xóm Cồn Thiên từ trước đến nay là khu dất hoang nằm chênh vênh bên sườn đồi trọc, chỉ mọc toàn là cây mua. Về diện tích, lồi  lên, lõm xuống ven theo triền đồi không thể đo đạc chính xác, chỉ tính những đám bằng bằng chắc cũng được hai hec-ta. Mùa hè khu đất Mò Ó đẹp lộng lẫy như một bức tranh thiên nhiên. Chỉ nội cái màu tím của nó, ai có một chút  đầu óc hội họa  pha thêm một tí  mầu mè của  tâm hồn hoa lá cành thì không thể không sững sờ bởi cái mầu tím cực kì  rực rỡ. Mầu tím của bạt  ngàn hoa mua, mà dân quê ở đây gọi bằng cái tên không mấy thân thiện, là loài  me hoang. Mùa hoa mua nở từ tháng ba chuẩn bị kịp đón ngọn gió Lào nóng khô thổi như sấy tóc.Trong lúc con người ở đây quay quắt với cái nóng gió Lào chết tiệt  thì hoa mua nở tưng bừng.Tím từ lá non, cánh hoa, đến  nhị hoa. Nhị hoa có hương vị  ngọt thanh, nhai một chút là đôi môi của thiếu nữ Cồn Thiên chợt sáng lên một mầu tim diệu kỳ  mà không có loại son môi nào có thể sánh được. Son Hàn Quốc nghe  nổi tiếng vậy nhưng cũng chỉ là mầu tím tối. Có lẽ chẳng nước nào trên thế giới chế biến được một loại son môi, để các cô gái tân thời có  một làn môi xinh đẹp như môi cô gái xóm Cồn Thiên, khi nhai một chút nhị hoa mua thuở đó. Nói thuở đó vì kể từ năm 1972, quân đội Mỹ đem các loại xe cơ giới tối tân đến cày cạt mô đất Mò Ó để biến triền đồi nầy thành một căn cứ quân sự, nhằm cắt đứt con đường tiếp tế cho các các chiến khu đâu đó xa tắp trên dãy Trường Sơn, mà đứng từ Mò Ó nhìn lên chỉ thấy toàn núi non trùng điệp, xanh rì. Lính Mỹ từ ngày lập căn cứ nầy đổ máu không ít, vì phải chiụ đựng những trận pháo kích của quân Giải Phóng. Ruộng của xóm Cồn Thiên không nhiều, không mầu mỡ, nhưng chính nó đã sản xuất ra những hạt vàng cho Bộ đội những năm tháng chiến tranh ác liệt. Triền đồi hoa mua đã bị bào trọc, họa chăng chỉ còn sót một vài đám tiếp cận với bờ ruộng. Nhưng rồi hoa mua  cũng không còn mầu tím nữa, bởi những đoàn công voa suốt ngày đêm chở đạn lên về căn cứ, đã phủ lên cây cỏ  ở đây một mầu đỏ chạch của bụi đất pha  bazan. Số phận của hoa mua trên triền Mò Ó cũng mang nỗi thăng trầm như người dân ở đây.

        Sau khi đất nước thông nhất, những đám cây  mua còn sót lại một lần nữa  bị đào xới tận gốc rễ, bởi chính bàn tay những  người dân Cồn Thiên thiếu đói. Không phải họ đào cây mua lên mà ăn.Thứ cây nầy chỉ làm đẹp chứ không thay được miếng cơm manh áo. Nhưng người dân Cồn Thiên có lẽ từ thời tổ tiên ông bà khai phá ra xóm Cồn Thiên đến nay, chưa hề có được một ngày thư thái để có thể nhận ra vẻ đẹp của quê hương mình. Lấy đâu cảm hứng để nhận ra vẻ đẹp của loài me hoang !  Nói tiếp cái ý do đâu gốc mua bị đào xới. Sau 1975 trước cảnh thiếu đói, căn cứ quân sự Mỹ ở Mò Ó đã đem lại một vài hạt  cơm trợ đói, nhưng nó cũng lấy đi sinh mạng không ít những đứa trẻ và cả ông bà già. Khi ngày ngày họ lên đây đào xới tìm sắt thép, gõ đầu đạn lấy nhôm. Chiến tranh qua đã gần chục năm thế mà trên triền đồi Cồn Thiên thỉnh thoảng  lại vang lên những tiếng nổ rung chuyển đất đá, với những  cụm khói ùn lên như tai nấm khổng lồ ghê rợn. Tiếp theo đó là tiếng gào khóc thê thảm, lúc thì ở đầu xóm,  lúc thì cuối xóm. Tiếng gào khóc nghe  quá uất ức đau đớn.  Hơn cả tiếng gào khóc của người dân Cồn Thiên lúc có người chết thuở còn chiến tranh.

        Một đợt rà mìn trên cồn Mò Ó do Tỉnh đội tổ chức. Sau đó một khu công nghiệp được hình thành.Từ đấy có một câu chuyện về rừng mua, vô tình biến nó  thành khu vườn quái dị như trong  chuyện cổ  tích.

        Mấy năm sau, nói thì mấy năm nhưng cũng đến gần cả chục năm, tính từ khi khu công nghiệp hóa chất bắt đầu hoạt động, vùng ruộng lúa đã từng cho bộ đội những hạt thóc vàng dần dần mất mùa liên tiếp.Có gieo, có cắt, nhưng hạt lúa thu được mùa sau ít hơn mùa trước. Những năm gần đây cây lúa không còn lên được nữa bởi những dòng nước vàng quánh hoặc đen sì  từ khu công nghiệp đổ ra. Trước đây dân Cồn Thiên chết vì chiến tranh thì nhiều bởi đây là căn cứ chìm của Cách mạng. Tiếp theo là chết vì  người dân đào xới để lấy đầu đạn. Hai cái chết tức tưởi mới hết gieo rắc trên xóm Cồn  Thiên, giờ đến lượt cái chết âm thầm đau đớn, nhưng cũng hết sức nghiệt ngã: Chết vì bệnh ung thư! Mấy năm qua số người bị căn bệnh nầy chỉ rải rác. Nhưng mỗi ngày thấy có vẻ nhiều hơn, khiến chính quyền địa phương phải quan tâm. Vừa rồi Bộ Y tế về khám sức khỏe cho người dân Cồn Thiên đã có kết luận: Số người mắc bệnh ung thư  giai đoạn đầu đã lên tới xấp xỉ con số mười. Đó là  chưa kể những bệnh nhân  giai đoạn sau đang điều trị ở các bệnh viện.

       Vợ chồng chị Lành người  xóm Cồn Thiên, trước đây ở cùng cha mẹ, nay cùng một số hộ  được Ũy ban xã cấp cho mấy lô  đất thuộc  vườn mua cổ tích, phiá ngoại vi khu công nghiệp. Hai vợ chồng chị làm công nhân cho một nhà máy hóa chất ở khu Mỏ Ó. Tính đến nay đã hơn bốn năm. Hai vợ chông đang làm ăn khỏe mạnh, dành dụm được ít nhiều, đùng một cái tai họa giáng xuống. Thằng con trai đầu của anh chị đang học lớp mười, một buổi tối ăn xong ôm bụng quằn quại. Ra trạm xá xã uống thuốc đau bụng nhưng  không bớt. Lên bệnh viện Huyện xổ lãi cũng  không có. Vượt tuyến thấu bệnh viện tỉnh chụp hình, thấy khối u trong bụng. Thế là hết! Nó mới mất tháng mười năm ngoái, tính ra đã chín tháng mười hai ngày. Đứa con trai mất, kéo theo cơ nghiệp anh chị góp nhặt gầy dựng bấy nay cũng xem như đổ xuống sông. Anh chị chỉ có một đứa con, đúng là om treo đầu giàn. Giờ đã vỡ tan tành. Từ đó đến nay, anh Lành sinh ra nát  rượu, bỏ bê công việc, chẳng hề bén mảng đến nhà máy. Chị thì bỏ cái  gì  đâu quên đó, chẳng tính toán làm ăn gì được. Một  hôm chị thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình sa sút, sức khỏe cả hai vợ chồng đều suy giảm. Chị hồi tỉnh trước anh. Chị năn nỉ anh bỏ uống rượu:                             
       -Trời thương sẽ cho mình đứa con khác.Cố gắng làm lụng tích lũy cho con cái sau nầy. Mình đang còn trẻ không thể sống hoài như thế nầy được… Chị nói với chồng như vậy. Dù ăn ở chung với nhau một nhà, ngủ chung một giường, mà như thể lần đầu tiên anh nhìn thấy mặt vợ.  Anh trông chị xác xơ mà động lòng. Lỗi nầy chẳng do ai cả, chỉ tại  số trời thôi. Anh hứa sẽ không uống rượu nữa. Một sáng nọ chị mừng khấp khởi khi thấy  anh đến nhà máy xin đi làm trở lại.                             




      Cả vùng đất quanh nhà chị bốn năm trước đây khi chị cùng chồng đặt lát cuốc đầu tiên đắp cái nền nhà, thì cỏ đuôi gà mọc phủ. Đó đây còn  một vài bụi mua tím ngắt lắt lay trước gió. Giờ thì nó biến thành một khoảnh xám xịt, cát chẳng ra cát, đất chẳng ra đất, đang lan dần  tới trước thềm nhà chị. Mấy khóm hoa vạn thọ, mười giờ, anh Lành trồng trước ngõ cho vui cửa vui nhà đều lần lượt bỏ anh chị theo gió bay lên trời. Anh Lành bàn với chị đào một cài rãnh ngăn không cho nước thải từ các nhà máy thấm qua vườn nhà mình.

        Anh Lành đi theo xe áp tải hàng vào thành phố. Ở nhà  những lúc không làm ở nhà máy, chị tiếp tục đào rãnh một mình. Đây là thứ công việc không đẻ ra đồng lợi nhưng không làm không được. Cái mùi  hắc không ra hắc, thối không ra thối, cứ xông vào mũi mỗi khi trời đứng gió. Không ai ăn ở kiểu nầy được. Vậy là phải làm. Nhưng phải làm vào ngày chủ nhật hoặc tranh thủ ngoài giờ lao động. Do vậy từ hôm anh Lành đi rồi, chị đào xới đến hơn bảy giờ tối mới vào lo cơm nước. Ăn một mình cũng khỏe.
      Hôm nay chị định nghỉ tay vì thấy đã chạng vạng tối, nhưng nghĩ còn mấy thước nữa là con rãnh ăn thông ra ruộng. Đến đó là thôi. Chị cố gằng đào thêm một chút nữa, để ngày mai có thể hoàn tất. Vừa vung mạnh lưỡi cuốc xuống chỗ đất cứng chợt lưỡi cuốc  chạm vào một cái gì đó kêu một tiếng rắc giòn như bẻ nhánh củi khô. Chị chú  mắt  nhìn xuống.  Trong thứ bóng tối nhờn nhợt của đầu hôm, chị thấy một bóng người ăn vận  y phục tím ngắt từ dười đáy rãnh lồm cồm chui lên. Chị Lành hết hồn vía, chị thét lên một tiếng, ném cái cuốc ra xa, vắt chân lên cổ chạy. Nhưng chợt có tiếng kêu cất lên từ phía dưới  rãnh:        

       -Chị kia đừng chạy, tôi không làm hại chị đâu.

      Chị Lành nghe ai đó gọi mình, thanh âm không có vẻ gì là tiếng hú dọa  ma quái, chị dừng lại và quay đầu lui nhìn. Bây giờ thì chị thấy  rõ: Một cô gái vận một thứ trang phục mầu tím kỳ lạ. Đặc biệt đôi môi đánh một loại son gì mà phát quang tím rực rỡ. Da mặt thì xanh ngắt như mầu lá.  Từng bước tiến về phía chị. Chị Lành vừa bước  thụt lùi miệng vừa lắp bắp hỏi –Cô là ma? Là Hồ li tinh?

      -Tôi không phải  ma. Cũng không phải yêu tinh -Bóng cô gái  mầu tím trả lời-Tôi là một linh hồn. Linh hồn khác với tinh ma, chị biết không.

        Chị Lành tiếp tục thụt lùi vừa lắc đầu. Bóng cô gái kỳ quái không tiến thêm nữa. Thấy vậy, chị Lành cũng đứng lại nhìn . Cô ta  cất tiếng hỏi lạnh như băng giá khiến chị  rùng mình:

        -Chỗ nầy của tôi ở đã lâu sao bỗng nhiên chị vác cuốc đến đào phá?

        -Khu đất nầy là vườn của tôi mà – Chị Lành cãi - Nhà tôi kia kìa cô  không thấy sao?               
       -Nhà chị cũng thuộc vườn của tôi –Vẫn với giọng âm u  lạnh lẽo bóng  cô gái tự xưng mình là một linh hồn trả lời.

       -Nhưng tôi được chính quyền cấp sổ đỏ kia mà.

       -Nhưng đây là đất của tôi, chị nghe rõ chưa?

       -Đây là đất hoang từ xa xưa, có phải là vườn tược của ai đâu.

       -Có đấy

       Giờ thì linh hồn mầu tím tỏ vẻ bực tức, gằn giọng 
       -Vườn của dòng họ tôi đấy.

       Rồi vặn hỏi chị Lành:

       -Vậy tôi hỏi: Chị nhận cái mà chị gọi là sổ đỏ nhà nước cấp cho chị từ lúc nào?

       -Lâu rồi .

       -Lâu là mấy năm?  Bóng cô gái  mầu tím kỳ quái vẫn chưa chịu buông tha.

       -Cũng gần năm năm nay.

       -Vậy thì trước hay sau ngày mà khu đất nầy còn là vườn hoa mầu tím?

       -Tất nhiên là sau.

       -Thế  thì được rồi, chị hãy đến đây. Linh hồn mầu tím vừa nói vừa bước đến  rãnh, chỗ chị Lành vừa đào. Nhưng chị Lành không dám tới. Bóng mầu tím giục:

       -Chị  đến đây tôi giải thích cho nghe. Tôi không bao giờ làm  hại ai cả.

       Chị Lành vẫn không dám bước tới. Thấy vậy, Linh hồn mầu tím cúi xuống rãnh lấy tay lay lay một cái gì đó rồi kéo lên.

       - Trời ơi-Chị Lành kêu lên kinh ngạc-Một bụi mua tràn đầy hoa tím sáng rực. Linh  hồn mầu tím hỏi:

        -Chị đã hiểu chưa?

       Chị Lành vẫn  lắc đầu tỏ dấu không hiểu.

       -Nầy nhé, tôi ở đây từ thuở có những  bông hoa nầy, mà theo chị nói, chị được cấp giấy phép đến ở khu đất nầy lúc không còn một bụi hoa mua mầu tím nào nữa.  Có phải vậy không?  Nghĩa là chị đến đây sau tôi. Giờ thì rõ rồi chứ.

       Chị Lành vẫn lắc đầu. Chợt linh hồn mầu tím nổi giận:

       -Hãy rời khỏi nơi nầy gấp, đây là đất  lành của hoa mua mầu tím. Bọn các ngươi đã đến đây biến nó thành một vùng đất nhiễm độc, đầy chết chóc .Thấy chưa! -Linh hồn mầu tím chỉ tay lên  những đám khói tỏa ra từ những ống khói trong nhà máy, đang vần vũ trên trời, rồi nói -Tử khí bao trùm trời đất!.Các ngươi đã tận diệt những bông mua mầu tím chúng tôi. Vừa nói, linh hồn mầu tím vừa quất mạnh những nhánh mua, làm những bông hoa biến thành những tia sáng cực tím bay thẳng  vào mắt chị. Hốt hoảng chị Lành bỏ chạy. Nhưng ở đâu chị cũng thấy những tia sáng  tím ngắt từ trên trời xuyên qua những đám khói chiếu thẳng vào chị,  khiến toàn thân chị đau đớn. Chị Lành thét lên.

       Anh Lành đang say ngủ bên cạnh vợ chợt  nghe chị Lành thét, anh giật mình vùng dậy lay vai chị.Chị Lành tỉnh giấc ôm chồng run rẩy

       -Em nằm mơ gì vậy?  Anh Lành ôm chặt vợ cho chị bớt hốt hoảng rồi dịu dàng hỏi.

        Đang cơn kinh hoàng chị Lành không trả lời chồng nổi nữa. Chị rúc đầu vào ngực anh khóc rưng rức. Một lát chị nói:

       -Ta dọn nhà đi ở chỗ khác thôi anh ạ. Giọng  chị chưa hết kinh hãi.

       Chặp lâu sau, chị Lành bình tỉnh trở lại, chị kể cho chồng nghe câu chuyện mình nằm mơ.

       Anh Lành an ủi vợ:

       -Có lẽ em buồn và lo lắng quá sinh ra mộng mị vậy thôi, ngủ đi

       Anh ôm chị thật chặt  vào đôi tay rắn chắc của mình, dỗ chị ngủ.

       Sáng  mai chị Lành nhất định đòi chồng phải ra chỗ  cái rãnh chị đào dở hôm qua, tiếp tục đào sâu hơn để coi có gì dưới đó không. Đào xuống  gần  một tấc nữa,  anh Lành kéo lên một tụm cây ruỗng mục. Nhìn lại đó là một bụi cây mua bị chôn vùi lâu ngày chưa hoai hết. Cũng chẳng có gì lạ. Vùng nầy  trước kia là khu  rừng mua  thì thân cây mua bị chôn vùi dưới đất chưa kịp mục hết là  chuyện bình thường. Có điều là  tối qua chị Lành lại nằm mơ thấy Linh hồn mầu tím kéo một bụi mua từ chỗ nầy lên. Cái đó mới lạ. Trong những câu chuyện thần thoại hai vợ chồng chị đọc hồi nhỏ chỉ có những loại cây cao bóng cả mới  có thần linh tọa. Chẳng hạn cây lê ở đầm Dược Long ,Tào Tháo vì chặt nó để làm nóc cung điện nên bị thần linh hại chét. Còn thân cây mua cao chưa quá đầu đầu gối thì thần nào mà tá túc. Hai vợ chồng chị Lành nhìn nhau  lấy làm khó hiểu.

     Câu chuyện đến tai của một cụ ông trong  xóm Cồn Thiên. Cụ đã sống qua ba thế kỷ tại khu đất nầy. Cụ giải  thích với mọi người theo một quan niệm thần học, và lấy thực tế để chứng minh hẳn hoi.Cụ bảo thằng Mỹ qua đây bào trọc rừng mua nên bị giết. Người dân xóm Cồn Thiên lên đào phá gốc mua nên  cũng gặp tai họa. Những người kinh doanh lên đây thành lập những nhà máy, thải ra chất độc hại làm cây cối bị hủy diệt, nên con cháu cũng mang những căn bệnh ngặt nghèo. Cụ kết luận: Hoa cỏ thiên nhiên cũng có linh hồn. Khi con người tàn phá thiên nhiên chắc chắn sẽ bị báo ứng.

      Ông cụ nói  vậy thì nghe vậy, còn đúng sai chỉ có trời mới biết. Có điều chắc chắn là khi con người đã đầu độc thiên nhiên, thì bằng cách nào đó, thiên nhiên cũng sẽ đầu độc lại con người.

Nguyễn Bá Trình

 bichlien101046@yahoo.com.vn


Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Truyện ngắn Nguyễn Bá Trình - NHỮNG BÔNG HOA CHO NGÀY TÁM THÁNG BA



      Bà Thanh Hiên năm nay vừa tròn năm mươi bảy tuổi. Bà nghỉ hưu đã được hai năm. Nhân ngày tám tháng ba năm nay, mấy bà bạn của bà Thanh Hiên đến thăm. Sau khi ra về họ ái ngại cho sức khỏe của bà Thanh Hiên. Điều làm họ lo lắng, nhưng không ai hỏi lúc ở nhà bà Thanh Hiên, đó là khi nhìn bình hoa cắm ở phòng tiếp khách của bà. Chỉ mới tết vừa rồi đây, cái bình hoa ấy cắm đầy những bông hoa rực rỡ. Thế mà bây giờ vào cái ngày đầy ý nghĩa của người phụ nữ, nó lại được cắm toàn những hoa dại: Một nhúm cỏ đuôi gà, vài ba cây cỏ chỉ, còn lại là bông hoa dại không có tên tuổi vẫn thường mọc đầy hai bên vệ đường. Một bình cắm đầy hoa cỏ dại như vậy mà gọi là bình hoa mừng ngày phụ nữ sao? Mấy bà bạn  to nhỏ với nhau rằng có lẽ đầu óc của bạn mình đã có vấn đề của tuổi già. Họ thở dài thườn thượt khi nghĩ rằng đời người thật chóng vánh.

                                                                        *

      Ông bà Thanh Hiên có ba người con, hai trai một gái. Tất cả đều làm ăn xa, đã có gia đình và đều thành đạt. Hai vợ chồng người con trai đầu đều là giảng viên của một trường đại học. Đứa con trai thứ hai là giám đốc một công ty TNHH, có vợ tốt nghiệp đại học kinh tế, hai vợ chồng làm chung một công ty. Người con gái út dạy cấp ba, chồng làm công chức nhà nước.

      Gia đình mấy người con của ông bà  Thanh Hiên êm ấm hạnh phúc. Trong thời gian nầy, mỗi lần đến ngày tám tháng ba, bà Thanh Hiên tới tấp nhận được quà và lời chúc mừng của con trai, con gái, dâu,  rể. Cả những tiếng trọ trẹ của cháu nội cháu ngoại chúc mừng bà qua điện thoại. Ông bà Thanh Hiên thấy hạnh phúc vô cùng vì nghĩ rằng những gì mình đã hy sinh vì con cái trời đã không phụ lòng.

      Thế rồi theo cơn lốc của xã hội, tình trạng li thân li dị như một thứ bệnh dịch lan tràn. Trong cùng một năm mà hai đứa con trai của bà Thanh Hiên li dị vợ, còn gia đình đứa con gái thì lục đục. Ông Bà Thanh Hiên nhận một đứa cháu nội lên bốn và một cháu ngoại lên ba về chăm sóc. Và đây cũng là ngày tám tháng ba đầu tiên bà Thanh Hiên không nhận được một lời chúc mừng nào từ con cháu. Không nói ra với ai nhưng lòng bà Thanh Hiên buồn biết chừng nào.

                                                                      *

      Chiều ngày bảy tháng ba, ông Thanh Hiên dẫn hai đứa cháu dạo trên con đường nở đầy hoa dại dưới nắng ấm đầu xuân. Bởi năm nầy, đầu tháng ba dương lịch tính ra mới cuối tháng giêng âm lịch. Tiết trời thật  đẹp. Sau cơn mưa phùn nhẹ vào đêm, sáng nay trời trở lại nắng ấm trong veo. Hoa dại rực rỡ như chưa bao giờ có được cái thời tiết như vậy để nở. Những đứa trẻ ở thành phố thì chưa lần nào thấy cảnh hoa nở tràn lan trên mắt đất nên chúng nhào vào tha hồ ngắt hái. Những con bướm biết mình không thể tranh lại với hai đứa bé nên đã bỏ đi, bay quanh quẩn gấn đó. Nhất định nó sẽ trở lại thôi bởi chúng biết hai đứa bé làm sao mà hái cho hết hoa!

      Ông Thanh Hiên  nghĩ đến bà Thanh Hiên. Có lẽ giờ nầy bà đang rầu rĩ nghĩ đến chuyện con cái. Ông gọi hai đứa cháu lại và bảo:
      -Hai cháu mang hoa nầy về tặng cho bà nhé.
      -Dạ. Đứa cháu nội lớn tuổi nhanh nhẩu.
      Ông Thanh Hiên hỏi:
      -Cháu nói sao để tặng bà?
      -Không biết.
      -Vậy thì để ông bày cho nhé, cháu nói như thế nầy: Thưa bà nội, nhân ngày tám tháng ba, cháu tặng hoa cho bà.
      Nói xong ông Thanh Hiên hỏi:
      -Cháu nói được không?
      -Không được.
      Vậy là ông Thanh Hiên tập cho hai đứa cháu nói  đi nói lại cho đến lúc thuộc mới về. 

      Đến nhà, hai đứa cháu chạy vào trước. Chúng vừa chạy vừa gọi bà. Ông Thanh Hiên bước theo sau. Bà Thanh Hiên hiện ra ở cửa. Đứa cháu ngoại nhỏ tuổi hơn lại chạy đến trước mặt bà ngoại trước, nó bập bẹ tiếng được tiếng mất:
      -Thưa bà ngoại… Cháu… tặng hoa cho bà ngoại đây nầy.
      Đứa cháu nội đến vẹt con bé ra rồi nói:
      -Không phải nói vậy. Ông nội bảo nói như thế nầy.
      Bà Thanh Hiên cười hỏi:
      -Ông nội dặn sao, cháu nói lại đi.
      -Thưa bà nội. Cháu tặng hoa cho ngày tám tháng ba…

      Bà Thanh Hiên cười rũ cả người. Một tay bà quàng vai hai đứa cháu tay kia bà gom hoa từ  đôi bàn tay đẹp hơn cả tay Thiên thần. Bà Thanh Hiên cảm ơn hai đứa cháu và lòng thầm cảm ơn ông Thanh Hiên đã tặng cho bà những bông hoa đẹp hơn tất cả những bông hoa đã nở trên mặt đất.


Nguyễn Bá Trình

Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013

BÓNG MA KHÔNG ĐẦU - truyện ngắn Nguyễn Bá Trình

Tác giả NGUYỄN BÁ TRÌNH



Tôi đã viết khá nhiều truyện ngắn, truyện nào cũng thấp thoáng hình bóng xóm nghèo, nơi tôi sinh ra: Xóm Cồn Thiên. Ở đó tôi chỉ sống một thời gian ngắn ngủi của tuổi thơ. Mặc dầu lớn lên tôi đi đây đó khá nhiều nơi, mở ngoặc, chỉ ở Việt Nam thôi, nhưng có lẽ không viết về xóm Cồn Thiên thì quả thật tôi không biết viết gì. Nói vậy không phải xóm Cồn Thiên có gì đặc biệt. Đấy chỉ là một xóm nghèo, nằm queo quắt như một chiếc khăn tắm vắt khô bên bờ sông. Ở đó tôi có quá nhiều kỷ niệm về sự chết chóc đau thương của bà con lối xóm qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tuổi thơ tôi chìm đắm trong nỗi kinh hoàng. Lớn lên tôi không cầm súng cho bên nào (vì hồi đó tôi còn nhỏ, lớn lên tôi ở các thành phố và được hoản dịch lí do gia cảnh). Thế nhưng mấy chục năm sau, trong giấc ngủ  tôi vẫn  ú ớ kêu thét vì mơ thấy những cảnh bắt bớ giết chóc. Tôi bị ám ảnh từ tuổi thơ.
         Hôm nay tôi có dịp trở về xóm Cồn Thiên sau gần hai chục năm xa cách. Tôi về quê ký lí lịch kết nạp Đảng để được xét lên Trưởng phòng. Người đầu tiên tôi sẽ gặp trong chuyến về nầy là Nghĩa, chủ tịch xã và là bạn học thời thơ ấu của tôi. Phải nói về Nghĩa một chút, không thì câu chuyện trở thành không đầu không đuôi.
         Xóm Cồn Thiên thuở đó không có trường học, kể cả trường tiểu học.Thứ nhất là do không có thầy cô giáo, thứ đến, xóm Cồn Thiên là vùng tranh chấp quyết liệt giữa Cách mạng và kẻ thù. Trong cả hai cuộc kháng chiến, bom đạn cày nát thôn xóm suốt ngày đêm. Không thể tập trung trẻ em được. Do vậy mà trẻ con trong xóm  ít đứa biết chữ. Tôi có cái may mắn là cha tôi biết đôi chút chữ nghĩa. Không biết ông dạy cho tôi trong những giờ khắc nào, vậy mà tôi đọc được viết đươc. Sau đó tôi đi học tiểu học, tại một ngôi trường cách xa nhà thuộc một vùng địch tạm chiếm. Trong xóm tôi có thêm thằng Nghĩa. Không biết ai dạy mà nó cũng lên được tiểu học.Vậy là hai chúng tôi cặp kè nhau đi học. Âu đó cũng là món quà tuổi thơ dành cho số phận cả hai chúng tôi. Sau nầy đứa nào cũng có chút chữ nghĩa giúp đời. Nếu không có thằng Nghĩa chưa chắc tôi đã dám đi học một mình.Và giờ nầy tôi cũng bị mù chữ như bao đứa trẻ khác ở xóm Cồn Thiên. Trường học chia làm hai ca. Các lớp lớn học buổi sáng. Tôi thuộc lớp nhỏ nên  học buổi chiều. Sao hồi đó nhà trường lại phân nghịch lí vậy không biết. Tôi sợ nhất là những ngày mùa đông. Trường bãi ca chiều khoảng năm giờ. Về đến nhà hơn sáu giờ. Mùa đông gặp khi mưa gió thì trời cũng chạng vạng tối rồi. Trên đường về nhà sợ nhất là qua cống Ông Tám. Hết cái cống nầy mới rẽ trái vào xóm Cồn Thiên. Còn rẽ phải thì qua truông Trăng Lu rồi đến xóm Mỏ Cày. Cống Ông Tám là một cái cống bằng gạch cũ. Mùa mưa nước chảy dưới cống ầm ầm, ở cuối xóm cũng nghe rõ. Lại còn thêm cây đa, thân ba người ôm không xuể. Tán của nó phủ bóng tối u uất quanh cống. Chỉ chừng đó thôi thì không có gì đáng nói. Cái đáng nói là ở cái cống nầy có ma. Vì trong thời gian chiến tranh có rất nhiều người thiệt mạng  ở đấy. Phía nào cũng có. Trước thì lính Pháp và quân du kích Việt Minh. Sau nầy thì lính Mỹ ngụy và quân Giải phóng.  Không biết cái chỗ đất đó sao mà cay nghiệt vậy. Đã có quá nhiều cuộc phục kích gây thiệt hại cho cả đôi bên. Vậy mà những trận đụng độ vẫn xẩy ra thừơng xuyên ở quanh cái cống ấy. Thế mới lạ. Trong xóm người ta bảo do thần linh ở cây đa khiến phải vậy. Mà chết nhiều như thế thì không thể nào không có ma. Nhiều câu chuyện rùng rợn  được những người có việc buổi  tối phải đi qua đây kể lại. Ai kể thì người ta còn cho là bịa. Còn như ông Tinh kể thì phải tin. Ông bảo có một buổi tối, vợ ông chuyển bụng, ông phải chạy tìm bà mụ bên xóm Mỏ Cày. Khi qua cống cây đa ông thấy có một người ngồi choán ngay giữa đường, cúi gục đầu xuống. Ông định thần nhìn kỹ (ông Tinh gan lắm và nổi tiếng là người trừ  ma nên chuyện ông bình tĩnh quan sát bóng ma là bình thường). Hóa ra  không phải ai đó đang cúi xuống mà là một bóng ma không đầu, mặc trang phục lính Pháp. Ông Tinh nạt lớn:
        - Không có cái  đầu thì coi ngươi làm được trò trống gì nào.
        Ông Tính vừa nạt thì bóng ma cụt đầu biến mất. Câu chuyện đó ám ảnh tôi ghê lắm. Do vậy mỗi lần trường bãi tối là tôi dặn Nghĩa phải đợi, hai đứa cùng về. Một hôm  trường tổ chức ăn liên hoan cuối năm nên bãi muộn. Lớp tôi về sau cùng. Ra khỏi lớp tôi chạy đến phòng học của Nghĩa nhưng nó đã bỏ về từ trước. Nhìn quanh  không thấy nó tôi đã quýnh trong lòng. Chẳng cách nào khác hơn (thuở đó chẳng ai có xe đạp để đi nhờ), tôi vừa đi vừa chạy. Đến gần cống Ông Tám, cách chừng  một trăm mét, tôi khựng lại. Nhìn quanh không thấy ai qua để cùng đi. Đợi lâu sợ tối thêm, tôi quyết định nhắm mắt và chạy. Để  lấy tinh thần, tôi vừa chạy vừa hát bài Lên đàng. Nào anh em ta cùng nhau xông pha … Nhưng đến cách cống chừng vài chục mét, tôi mất hết  bình tĩnh, không điều khiển được đôi mí mắt của mình nữa. Tôi mở to. Chắc chắn là không  phải do tôi quáng: Trước mặt, cách tôi chừng năm chục mét, một bóng người cụt đầu ngồi choán ngay giữa đường! Tôi thét lên, không biết có ra hơi không và nhắm mắt quật chạy ngược lại. Được một quãng, tôi phát hiện trong tích tắc, ngoài tiếng thình thịch của bước chân tôi, có tiếng bước chân lạ đâu đó rất gần. Dương mắt, tôi súyt chạm một bóng trắng. Toàn thân tôi khuỵu xuống. Nhưng một cánh tay đã níu vai kéo tôi lên và phát ra tiếng nói: - Đừng sợ, cậu bé đi về đâu?
        Tôi nghe hơi ấm từ bàn tay và cả từ giọng nói khàn đục của người đàn ông. Giọng nói đó lại cất lên: - Cháu về Cồn Thiên hay Mỏ Cày? Tôi không nói nổi, chỉ tay về hướng Cồn Thiên.
        Qua khỏi cống Ông Tám, người đàn ông buông tay tôi và nói.
        - Hết chỗ sợ rồi đấy. Cháu về Cồn Thiên đi, ông qua Mỏ Cày.
        Bóng trắng tách tôi ra và rẽ phải. Đâu được vài bước thì bóng trắng cũng biến mất. Tôi tiếp tục chạy, lòng chưa hết sợ. Lúc đó sao lại nghe có giọng thằng Nghĩa hát? Đúng là thằng Nghĩa. Nó vừa đi vừa hát trước mặt tôi. Không xa lắm nên tôi vẫn nhận ra dáng nó, cao cao lưng hơi còng. Cái lưng và đôi giò đó mà nó cõng tôi chạy ù quạ thì sết sẩy. Tôi gọi tên nó hối hả. Nó quay lui và đứng đợi. Tôi hớt hải hỏi:
        - Ở cống Ông Tám mầy có thấy gì không?
        Nó trả lời làm tôi ớn lạnh cả xương sống:
        - Của tao đấy.
        Tôi muốn hỏi nó về cái bóng ma cụt đầu tôi vừa thấy lúc nãy mà chắc chắn Nghĩa cũng thấy. Nhưng sao nó trả lời như vậy! Tôi rởn da gà, liếc nhìn nhìn xem có phải đúng  là thằng Nghĩa không. Hay nó cũng là ma. Rồi tôi nghe đúng giọng thằng Nghĩa nói:
         - Khi chiều tao đánh bi với thằng Thanh, tao ăn nó ba viên, bỏ trong túi quần. Không ngờ cái túi bị thủng nên qua cống Ông Tám nó rớt ra một viên. Xui sao mà xui, nó lại lăn xuống cái lỗ dế. Tao ngồi cúi đầu đào hoài. Cứ đào tới nơi  là nó lại tụt xuống. Mỏi cổ quá tao ngẩng đầu lên thì trời đã tối om.
        Kể xong, nó lại hỏi tôi:
        - Sao mầy đào được rồi  hả? Viên bi khế mầu cam phải không? Đâu rồi cho tao xin lại đi.
        Cuối cùng tôi đã hiểu. Trời đất! Cái bóng ma cụt đầu khi nãy chính là thằng Nghĩa đang cúi xuống đào viên bi mà nó đánh rơi tuột vào lỗ dế. Nó làm tôi suýt đau tim mà chết.

      Học hết tiểu học trường làng tôi may mắn thi đậu vào trung học công lập trường huyện. Nghĩa bỏ học.
      Dù mới trung học đệ nhất cấp tôi đã đi dạy kèm để tự túc ăn học và tiếp tục học lên.
      Những ngày tháng sau đó tôi không có điều kiện trở lại xóm Cồn Thiên. Mãi đến sau năm một ngàn chín trăm bảy lăm tôi mới về lại xóm cũ. Được biết Nghĩa đang là chủ tịch xã.
      Sau một thời gian dài xa nhau, quả thật trở về gặp bạn lúc nầy tôi cũng có chút băn khoăn. Trong suốt ngần ấy năm, xóm Cồn Thiên chịu bao đau thương. Người dân Cồn Thiên hy sinh không biết bao nhiêu xương máu. Mỗi khúc cua, mỗi chỗ ngoặt của đường xóm, không có chỗ nào là không có người dân Cồn Thiên hy sinh. Nếu cứ lấy tên anh hùng liệt sĩ mà đặt tên đường như ở các thành phố thì có lấy hết tất cả các con hẻm, dù chỉ dài chừng vài  trăm mét cũng không đủ để ghi tên các liệt sĩ xóm Cồn Thiên. Trong thời gian đó Nghĩa bám trụ cùng quân du kích địa phương quyết tâm giữ từng tấc đất thấm đẩm máu cha anh. Cùng lúc ấy thì tôi lang thang kiếm cơm ăn học tại các thị xã rồi đến các thành phố. Tôi đã vuột bỏ xóm Cồn Thiên như vuột bỏ cái áo khoác đang bén lửa có nguy cơ thiêu đốt con đường học vấn của  tôi, dù rằng trước đó nó đã che chở tôi qua  bao mùa mưa nắng. Bây giờ đất nước hòa bình, xóm Cồn Thiên đang cùng tất cả các vùng quê khác chuyển mình vươn lên thoát đói nghèo thì tôi trở lại với một mục đích cũng hoàn toàn vì quyền lợi cá nhân.Vì vậy tôi ngại khi phải  gặp lại Nghĩa. Dù rằng hai đứa  đã có một thời gắn bó  tuổi thơ. Cũng may tôi không có dính dấp gì đến quân đội, chính quyền chế độ cũ. Lứa tuổi của tôi mà ở các thị thành miền Nam thì hầu hết đều dính. Tôi cũng biết, nếu tìm gặp Nghĩa trước ở nhà riêng của Nghĩa thì hay hơn. Nhưng tôi không muốn áp dụng lối quan hệ vụ lợi kiểu dân thị thành. Muốn gặp gỡ trao đổi với ai điều gì trước hết dẫn nhau đi nhậu một trận rớt cần câu, sau đó khi đã ngà ngà rồi muốn nói gì chả được. Một tiếng là tình cảm anh em hai tiếng là tình cảm anh em, nghe ra ngọt xớt như mía lùi, đầy ắp tình cảm như li nước tràn.Và người đươc mời, để thể hiện tấm lòng của mình sẵn sàng giúp đỡ vô điều kiện, không đắn đo, không giữ kẻ, anh ta gọi món vô tư. Nhưng sau đó khi bước đến quầy tính tiền, khổ chủ nhìn vào bảng thanh toán, những con số làm cho anh ta hoa cả mắt. Nếu không kìm được, y cũng văng tục, dm đúng là gặp hạm.  Từ một thằng con nít xóm Cồn Thiên, năm sáu tuổi còn ở truồng mà chạy. Lớn lên ăn cơm góp khắp các thành phố từ miền Trung cho chí miền Nam, đến tận cùng cực Nam của Tổ quốc, thì tôi cũng không phải vừa. Nói thế không có nghĩa tôi là thằng ranh ma. Nhưng  cũng không đến nổi ngù ngờ trong quan hệ. Tôi biết vận dụng các chiêu thức tùy đối thủ. Nhưng đến với Nghĩa lại khác. Đến với Nghĩa là đến với xóm Cồn Thiên, vùng đất mà trong lòng tôi là một đền thờ của tâm linh. Tôi không thể làm điều gì trái với lương tâm mình. Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần khi gặp sự giao tiếp lạnh nhạt của Nghĩa. Cũng có thể Nghĩa bảo tôi xa quê hương lâu ngày anh ta không biết gì về những hoạt động của tôi trong gần hai mươi năm qua để từ chối không xác minh lí lịch cho tôi. Đó cũng là lời trách khéo tôi. Tất nhiên là tôi chấp nhận. Nhưng nói cho cùng, đấy cũng không phải lỗi của tôi. Còn Nghĩa có nhìn tôi dưới con mắt của một người cơ hội không? Khi đất nước trong cơn dầu sôi lửa bỏng thì tôi trốn chui trốn nhủi ở các thành phố kiếm tìm phương thưc để đạt được mơ ước vinh thân phì da. Giờ quê hương đã hết bóng quân thù thì trở về xin được chính quyền xác nhận cho mình có môt lí lịch trong sạch! Chữ trong sạch nầy phải hiểu theo nghĩa như thế nào đây. Chán chi người lí lịch trong sạch nhưng lương tâm không trong sạch. Điều nầy thực lòng tôi không hề mặc cảm. Vào Đảng với tôi không phải là việc làm của người theo chủ nghĩa cơ hội. Có được kết nạp hay không, thái độ và tinh thần làm việc của tôi vẫn không có gì thay đổi. Tôi đã từng xác định cho mình như vậy. Nghĩa nghĩ sao thì mặc.
       Vì đã có chủ định gặp Nghĩa  từ trước nên  mới bước vào cơ quan, nhìn người ngồi ở ghế chủ tịch là tôi nhận ra Nghĩa ngay.Tất nhiên tôi vẫn giữ đúng mực quan hệ trong công sở. Tôi  không thể chạy đến quàng vai Nghĩa  như thời còn nhỏ. Thật tình lúc đó lòng tôi rất muốn chạy lại ôm Nghĩa và  nhảy lên lưng nó, như nó đã từng cõng tôi chạy ù quạ cách đây mười mấy năm. Nghĩa đang cặm cụi viết , thấy tôi Nghĩa ngẩng lên nhìn chăm chăm.
        - Nghĩa không nhận ra mình sao? Tôi dè dặt hỏi.
        Nghĩa vẫn không rời mắt khỏi khuôn mặt tôi.
        - Mình, H đây mà. Tôi nói: - Cậu  thay đổi cũng nhiều nhưng mình vẫn nhận ra Nói xong tôi chủ động chìa tay ra. Nghĩa cũng đưa tay bắt, không nói gì. Nghĩa cố tình quên tôi chăng?
        - Mời ngồi - Nghĩa chỉ chiếc ghế đối diện rồi chậm rãi nói-Nhớ chứ , mình có nghe mấy người nói H có về thăm. Ai nói nhỉ, ờ Thím Hòa . Tối qua đáng lẽ mình sang chơi, nhưng bận một chút việc về hơi khuya nên không qua được.
        Nghĩa nói vậy là có ý trách khéo tôi không sang trình diện Nghĩa chăng? Nghĩ thế tôi nói:
        - Đúng ra mình phải sang thăm cậu trước. Nhưng nghĩ cả ngày cậu làm việc, tối cần nghỉ ngơi…
        - Việc làng việc xã chẳng có gì căng lắm, có điều là phải làm luôn. Đày tớ của dân mà! Dân kêu đâu dạ đó. Ngày qua xẩy ra vụ xung đột do việc khơi mương dành nước tưới  cho ruộng của mình, giữa  hai gia đình ông Cử Thám với mụ Năm Rớt. Phải họp bà con đến tám giờ tối mới phân xử xong. Cậu về nghỉ được mấy hôm?
        - Mình về vài ba hôm.
        - Về thăm lại xóm làng, hay có việc gì không? Ngồi đây mình đi lấy nước uống.
        Tôi ngồi uống nước và nói với Nghĩa là tôi về xin xác minh lí lịch. Tôi không đoán ra thái độ của Nghĩa như thế nào khi Nghĩa nói:
        - Xác minh về thành phần gia đình thì dễ thôi.
        Nghĩa không nói thêm và lại rót nước mời tôi. Có phải Nghĩa ngại không nói ra hết câu: nhưng còn về bản thân tôi, những hoạt động của tôi hơn mười mấy năm qua thì khó xác minh?
        Mặc dầu trong lí lịch đã có lời cam kết, nhưng tôi tự hỏi có nên nhắc lại với Nghĩa lần nữa rằng những gì tôi khai trong lí lịch là hoàn toàn đúng không. Rồi tôi tự xác định là không cần thiết. Thời gian im lặng giữa hai người trôi qua chắc chưa đầy một phút, sau câu nói của Nghĩa, mà sao tôi thấy lâu và nặng nề. Mình có nên trả lời là thôi, không cần thiết nữa không nhỉ. Đang phân vân  chợt Nghĩa phá vỡ sự im lặng trước:
        - Sao cậu không nhờ địa phương nơi cậu sinh sống thời gian qua họ xác nhận cho.
        - Có. Nhưng họ bảo mình phải về quê.
        - Ở quê thì xác nhận  thành phần giai cấp chính trị của đương sự và gia đình. Còn hoạt động của đương sự thì phải chính nơi đương sư sinh sống xác nhận chứ. Cậu thấy vậy có hợp lí không?
Tôi hỏi:
        - Ý cậu là không xác nhận đươc?
        - Đúng thế.
        Đột nhiên Nghĩa phá lên cười rồi đưa tay ra bắt tay tôi. Cái siết tay của Nghĩa lần nầy chặt hơn lúc tôi mới vào. Tôi chẳng hiểu sao cả. Thằng nầy muốn diễn trò gì đây? Nó muốn chứng tỏ quyền uy của một vị chủ tịch xã ư. Bây giờ thì tôi không còn suy nghĩ gì nữa, tôi nói với Nghĩa:
        - Cảm ơn cậu đã bỏ thì giờ tiếp chuyện mình. Bây giờ mình thấy  không cần phải xác minh lí lịch nữa.
        Nghĩa lại cười và kéo tay tôi ngồi xuống khi tôi định đứng dậy. Nghĩa nói:
        - Bình tĩnh, đừng nóng quá ông bạn. Nầy tôi hỏi cậu, có phải cậu đã viết như thế nầy trong một bài thơ cậu đăng ở báo Văn nghệ không? Nghĩa đọc:
        Tôi từng ghi trong hàng chục trang lí lịch / Nơi sinh của tôi Cồn Thiên, Mỹ Điền / Thực ra tôi chỉ sinh một phần tại đó / Theo tháng năm tôi còn được sinh ra / Tại Quảng Nam, Quảng Ngải, Thừa Thiên /…Tôi sinh ra trong từng trang sách nhỏ /
Từ Châu Phi đói nghèo đến Mỹ Âu giàu có…- Cậu đã viết vậy thì bảo tôi ký xác minh làm sao? Chỗ nào cũng là nơi sinh của cậu. Cậu cũng còn sinh ra một phần từ châu Phi châu Mỹ nữa mà!
        Bây giờ đến lượt tôi phá lên cười. Đúng, đó là bài thơ tôi viết cho báo Văn Nghệ. Ý nói tôi lớn lên bằng những hạt cơm góp và những hiểu biết của mình có được nhờ những tháng năm lăn lộn với cuộc sống, cùng những điều học hỏi trong sách vở. Nghĩa đã đọc đâu đó và nhớ rất kỹ, trong khi tôi đã quên phéng từ lâu. Nghĩa nhìn tôi cười:
        - Bài thơ ấy là do Đông Ngọ mang đến cho mình đấy. Ngọ học lớp tư B (lớp hai bây giờ) trường tiểu học Hưng Nhơn với tụi mình, lên lớp ba thì bỏ học. Ngọ ngồi bàn đầu, cậu nhớ không? Ngọ theo cha ra Bắc tiếp tục học. Hiện giờ làm ở báo Văn Nghệ. Nhờ vậy mình mới được đọc bài thơ của cậu. Dù cậu có được sinh ra ở đâu như cậu nói, thì mình vẫn phải ký li lịch cho cậu thôi. Vì sao biết không?
        Tôi lắc đầu. Nghĩa chêm nước cho tôi và nói:
        - Bởi hai câu cuối bài thơ cậu đã viết:
        Dù sinh ở đâu tôi vẫn được dưỡng nuôi / Bằng những giọt nước trong veo của dòng Ô Lâu cần mẫn … Bởi vậy mình biết trong lòng cậu không bao giờ quên quê hương.
        - Cảm ơn cậu. Tôi xúc động nói với Nghĩa.
        Bây giờ thì Nghĩa thay đổi thái độ hoàn toàn. Chuyện trò cười nói với tôi thật cởi mở. Nghĩa hỏi thăm về bằng cấp công việc hiện nay của tôi. Nghĩa tâm sự:
        - Hết nhiệm kỳ nầy mình xin nghỉ, về cùng bà con xây dựng hồ cá hồi ở đầm Vạn Trạch.
        Tôi nói:
        - Nghe bà con nói cậu làm việc rất năng nổ và được bà con tín nhiệm lắm. Mình nghĩ cậu nên ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
        - Bây giờ đất nước đã bước qua một giai đoạn mới rồi. Trình độ học vấn của mình như cậu biết đấy, không thể đáp ứng nhu cầu công việc. Cần phải có một cái đầu đổi mới H ạ. Thanh niên bây giờ kiến thức hiện đại lắm. Đã đến lúc nên chuyển giao cho lớp sau.
        Đang nói, đột nhiên Nghĩa nhắc lại chuyện hồi nhỏ:
        - Cậu còn nhớ  ông Tính đã nói với con ma không đầu ở cống Ông Tám hồi đó sao không? Không có cái đầu thì coi ngươi làm được trò trống gì nào!
         Cả hai chúng tôi cười vang.
         Với Nghĩa thì tôi không đánh giá được cái tài, nhưng rõ ràng cậu ấy có cái tâm. Quê hương tôi đang cần những người như Nghĩa.

Nguyễn Bá Trình
bichlien101046@yahoo.com.vn