Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện ngắn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện ngắn. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

NGỌN LỬA BẾP VĨNH CỬU - Truyện ngắn Nguyễn Bá Trình





    “Tu li… tu li… “ củi đây!

Người thương binh từ trong trại an dưỡng bước ra. Đầu đội chiếc mũ tai bèo, trên người anh là bộ quân phục màu xanh lá cây đã bạc mầu. Lưng mang chiếc ba lô con cóc, có cài chiếc bi đông nước ở thắt lưng. Người  thương binh tên gì không ai biết. Chỉ biết rằng, sáng sáng khoảng tám giờ , anh bắt đầu bước ra khỏi nhà an dưỡng và bắt đầu một cuộc đi bộ dọc theo đường phố. Anh dùng tay bóp môi dưới tạo thành cái còi và hít vào thật sâu, rồi thổi một hơi dài phát ra tiếng kêu tu li, tu li, y như tiếng con chim tu huýt bằng đất nung mà trẻ con thường thổi. Từ đó trẻ con trên đường phố mà anh thường đi qua gọi anh là chú Tu Li.

-Chú Tu Li , chú  Tu Li! Củi đây nầy.

Nghe tiếng anh thương binh huýt gió từ xa, một cháu gái chạy từ trong nhà ra mang cho anh một que củi nhỏ.

Anh Tu Li nhìn cháu bé cười ngô nghê rồi nói:-Củi, củi nhiều quá.

Vừa nói anh vừa dừng lại mở chiếc ba lô con cóc ra bỏ que củi vào. Trong ba lô của anh cũng toàn là những que củi vụn, nói cho chính xác là những cọng rác anh nhặt dọc đường.

Anh thương binh cẩn thận đặt que củi vào ba lô giống  như người ta đặt một cái gì đó dễ vỡ. Tu li, tu li, anh lại bước đi và bắt đầu huýt gió.

Trên đường đi nhiều đứa bé đã cho anh Tu Li củi.  Có nhiều đứa trẻ nghịch ngợm nhặt một cọng kẽm gai chạy đưa:

-Chú Tu Li, củi  đây nầy.

-Tu li… tu li.... Củi nhiều quá. Người thương binh lại mở ba lô bỏ khúc kẽm gai vào:

-Củi nhiều quá.

Ti li, tu li. Tiếng sáo miệng của anh thương binh lanh lảnh trên các đường phố vào những buổi sáng tạo ra một âm thanh than quen vui vẻ, nhất là đối với các trẻ nhỏ.

Có  một bận bà hàng xóm  biết cậu bé cạnh nhà mình học lớp sáu nhưng rất tinh nghịch, cậu bé đã từng đưa cho anh thương binh những cọng kẽm gai sắc nhọn.Thấy quả tang bà gọi đứa trẻ lại quở trách giọng nhẹ nhàng:

-Chú ấy đang đi kiếm củi, sao cháu không mang củi ra cho chú ấy mà lại đưa cọng kẽm gai? Chú ấy bỏ vào ba lô nhỡ móc rách áo quần chú ấy thì sao? Không chừng lại làm rách da chú ấy nữa đấy.

_Chú  ấy điên mà cô. Chú có nấu ăn được đâu mà cho củi?

-Chú  ấy không điên đâu. Bà hàng xóm nói.

-Không. Chú ấy điên thật cô ạ. Chú ấy ở trên khu an dưỡng thương binh cháu biết mà!

-Cô  đã nói chú ấy không điên.Chú ấy chỉ lẫn trí thôi.

-Lẫn  trí khác với điên sao hở cô?

-Người lẫn trí là người không kiểm soát được trí nhớ của mình. Mọi việc người ấy chỉ nhớ mang máng thôi. Thực hư không phân biệt rõ ràng. Như chú thương binh nầy còn biết đi nhặt củi. Nhưng lại không phân biệt được cái gì đốt cháy cái gì đốt không cháy. Chú ấy còn nhớ mang củi về nhà nhưng không nhớ là mình phải dùng cái gì để mang củi. Cháu thấy chú ấy có phải vậy không?

-Còn người điên thì sao hở cô.

-Cô  không biết giải thích sao cho cháu rõ nhưng đại loại  đó là những người mất hết trí nhớ hoàn toàn. Đứa trẻ lắc đầu có vẻ không phân biệt được. Bà hàng xóm nhìn cậu bé cười:

-Thôi thì cháu chỉ cần hiểu rằng; với những người như chú ấy hoặc là người điên đi nữa thì các cháu cũng không được chọc ghẹo mà phải tìm cách giúp đỡ họ. Nói vậy thì cháu hiểu chứ?

Đứa trẻ gật đầu. Nhưng rồi nó lại hỏi:

-Mà  sao chú Tu Li không nhặt gì mà chỉ nhặt củi vậy cô? Có lần cháu để que củi dằn trên tờ giấy bạc hai ngàn đồng đặt ngay trên đường chú ấy đi qua; nhưng chú chỉ nhặt que củi mà không nhặt tờ giấy bạc.

Đứa bé hỏi lần nữa-Sao vậy cô?

Người đàn bà im lặng suy nghĩ một lát rồi trả lời:

-Cô không biết chắc chắn lắm nhưng có lẽ hình ảnh còn sót lại trong trí nhớ mơ hồ của chú ấy là những bếp nấu. Nghĩa là trước khi chú ấy bị một vết thương làm mất trí nhớ, công việc của chú là nấu ăn cho bộ đội. Có thể là như vậy, cô chỉ đoán thôi, và chú ấy đã nhập tâm với công việc của mình. Cũng như cháu vậy, ngày nào cháu say sưa với một trò chơi  nào đó thì lúc ngủ cháu cũng mơ thấy cháu chơi trò chơi đó. Có lúc nào cháu gặp trường hợp như thế không?

Đứa bé trả lời một cách thích thú:

-Dạ có. Cháu luôn như vậy.

-Đấy đấy. Cô  nghĩ chú ấy cũng đang trong một giấc ngủ  mê đấy.

-Vậy thì có lúc nào đó chú ấy tỉnh lại phải không cô?

-Cô tin như vậy. Để chú ấy mau tỉnh lại thì mọi người phải thương yêu giúp đỡ cho chú. Cháu phải chọn những que củi nào không có gai đem cho chú với những lời nói thật đáng yêu. Chẳng hạn cháu nói với chú ấy rằng- Chú ơi, chú gắng nấu thức ăn cho ngon để bộ đội ăn cho no mà đánh giặc nhé. Hoặc khen chú- Chú ơi chú nấu thức ăn ngon lắm, ai cũng khen cả.Vậy là chú ấy thấy vui mà mau thoát ra khỏi cơn mê muội. Cháu có làm vậy được không?

-Dạ nhất định cháu làm được, cháu còn giả bộ nhai thức ăn chú ấy nấu một cách ngon lành nữa kia.

Người đàn bà hàng xóm bật cười:

-Cháu ngoan lắm.

                                             *

Ngừoi đàn bà hàng xóm của cậu bé tên Vũ Thị Thanh, năm  nay đã trên bốn mươi  tuổi, ở tại số nhà 12 đường Nguyễn Huệ. Chị Thanh có chồng là bộ đội. Ngày đất nước thống nhất, những người chồng, người cha, người con, người anh… của các gia đình lần lượt trở về. Có người thì trở về nguyên vẹn. Người thì trở về không còn nguyên vẹn. Có người trở về chỉ là một nắm xương. Nhưng tất cả những gia đình đón người thân trở về trong những trường hợp như vậy, chị nghĩ, ai cũng may mắn hơn chị. Bởi chồng chị đã không bao giờ trở về- Dù anh ấy trở về chỉ là một nắm xương thì tôi cũng yên tâm. Chị tâm sự với mọi người như vậy. Một đồng đội của chồng chị sau ngày nước nhà thống nhất đã tìm đến nhà  báo tin cho chị rằng chồng chị đã hy sinh năm 1974 ở chiến trường Đức Cơ. Với một câu nói mà lúc ấy chị thấy không còn có Trời, không còn có Đất, không còn có loài Người nữa. Câu nói chỉ vẻn vẹn có mấy chữ mà sao ghê gớm đến thế-Đồng đội không tìm được xác anh ấy!

 Trời đâu rồi? Đất đâu rồi? Mọi người ở đâu hết? Sao không ai biết anh ấy ở đâu mà mách bảo giùm tôi?

Vậy mà chị  cũng sống đến được bây giờ.

Vào khoảng thời gian khi làn sóng tâm linh nổi lên ào ạt khắp mọi nơi trên một đất nước mà đào ở đâu cũng gặp xác người, chị không tin nhưng cũng phải tin vào một hiện tượng đồng bóng. Chị nhờ một nhà ngoại cảm tìm xác chồng. Nhà ngoại cảm đã xác định đúng nơi  người chồng của chị ngã xuống, một vị trí núi non trùng điệp thuộc vùng Ba biên giới. Ngày người ta đưa hài cốt về chị đã khóc ngất. Nhưng  sau khi cải táng anh vào nghĩa trang liệt sĩ, chị lại có một cảm giác lạ lùng rằng hài cốt liệt sĩ ấy không phải là hài cốt chồng chị. Chị nghĩ rằng chồng mình chưa chết. Nghĩ vậy  nhưng chị không nói ra với ai. Lấy ngày bốc mộ làm ngày mất. Vào ngày đó hàng năm chị vẫn cúng giỗ nghiêm túc. Và chị van vái với vong hồn người chết rằng, nếu anh không phải là chồng chị thì cứ xem chị như một người thân trong gia đình của liệt sĩ. Rồi mấy mùa giỗ qua đi, lòng chị cũng nguôi ngoai dần và chị xem như chồng mình cũng đang nằm đâu đó trong nghĩa trang liệt sĩ dưới một ngôi mộ không tên hoặc với một cái tên khác.





                                                                     *\

Tu li …tu li.... Người thương binh bước ra khỏi trại an dưỡng, vừa đi vừa bóp môi huýt gió.   –Củi đây! Anh ta lại nhặt một que rác bỏ vào chiếc ba lô đeo sau lưng. Những đứa trẻ trên đường phố nghe tiếng huýt gió chúng cũng nhại theo:Tu li, tu li, rồi chạy vào sau bếp  nhặt một que củi nhỏ: -Chú Tu Li ơi, củi đây!

Sáng nay anh thương binh không mặc bộ đồ trận sờn vai như mọi hôm. Anh mặc một chiếc áo ấm  mầu cà phê đã bạc lỗ chỗ từng đám. Đôi mắt mờ đục, nước da hơi xanh tái do khí tiết của những ngày trở đông. Miệng anh luôn mỉm cười, đôi khi cái cười cũng  vu vơ, chẳng thể hiện niềm vui hay nỗi buồn. Lâu lâu anh lại cúi xuống nhặt một cái gì đó. Cần mẫn và chịu đựng. Có lẽ câu chuyện giữa bà hàng xóm và cậu bé tinh nghịch hôm nọ đã đến tai mấy đứa trẻ khác, nên sau đó chúng không mang cho anh thương binh những cọng kẽm gai hoặc những que rác dơ bẩn. Chúng còn nói về anh bằng những hình tượng thật đẹp đẽ,  có lẽ do cha mẹ chúng hay người thân nói cho chúng nghe.

Một đứa bé  nói với bạn nó:

-Mầy có biết chú Tu Li nhặt củi để làm gì  không?

-Thì  chú ấy về nấu ăn chứ còn làm gì  nữa.

-Vậy thì bếp của chú ấy đặt ở đâu mầy biết không?

-Ở  trung tâm an dưỡng chớ còn ở đâu.

-Sai.

-Vậy thì ở đâu?

-Ở trong trái tim chú ấy.

Đứa trẻ kia phá lên cười như nắc nẻ. Nó nói:

-Bếp mà đặt trong tim thì cháy trái tim mẹ nó rồi còn gì.

Cậu bé nầy cãi lại:

-Vậy mà không cháy đâu nghe!

-Sao mầy biết?

-Thì chú ấy còn sống sờ sờ ra đó.

Đứa trẻ kia cứng họng nó cảm thấy như mình bị mắc lừa, nó lại phá lên cười, rồi hỏi lại:

-Thôi được.Tao hỏi mầy là sao mầy biết chú ấy đặt bếp trong trái tim chú ấy? Giỏi trả lời đi.

Cậu nầy tỏ ra thành thạo, khi quả quyết như một người lớn:

-Sao lại không biết. Tao còn biết nhiều điều hơn nữa kia.

-Mầy biết gì kể  tao nghe thử.

-Chú ấy làm anh nuôi. Mầy có biết anh nuôi là gì không?

-Không.

-Anh nuôi là anh bộ  đội chuyên đi chợ nấu ăn cho những anh bộ  đội khác.

-Sao nữa mầy kể  tiếp đi.

-Chú anh nuôi ấy đi theo đoàn bộ đội dọc dãy  Trường sơn. Bộ đội đóng quân tại đâu thì chú ấy đào bếp nấu ăn tại đó.

-Sao mầy bảo chú ấy đặt bếp trong tim chú ấy?

-Chứ  sao nữa, tao kể chưa hết mà.Cho đến một hôm  đơn vị chú ấy bị địch vây đánh, chú  ấy bị một vết thương đâu đó trên đầu. Trước khi bị rơi vào tình trạng lẫn trí, chú đã kịp thời dời cái bếp vào trong trái tim chú ấy. Từ đó chú không quên tiếp tục công việc của mình bằng cách nhóm lửa lên trong trái tim của chú.Và cứ thế ngày ngày chú ấy vẫn đi kiếm củi.

Đứa bé kia vỗ tay:

-Hay quá ta! Y như chuyện cổ tích thần thoại. Ai kể cho mầy nghe hay dữ vậy?

-Cô Thanh ở cạnh nhà tao kể. Mầy có tin không?

-Ừa,  giờ thì tao tin.

                                                        *



    Cũng như mọi hôm, anh thương binh đi nhặt củi dọc theo đường Nguyễn Huệ, đến khúc cua rồi tiếp tục đi thêm một đoạn nữa là đến ngôi nhà mang số 12. Anh dừng lại. Anh đâu có biết số nhà, chỉ theo thói quen, đến đó bao giờ anh cũng thấy một lọn củi , gồm mươi que củi nhỏ, sạch sẽ và được chặt đầu đuôi gọn gàng, bỏ sẵn trước thềm ngôi nhà số 12. Nắm củi được gom lại và bó chặt lớn không quá bắp tay. Vậy là anh thương binh bước đến mở ba lô bỏ nắm củi vào. Ba lô đã đầy củi, anh không đi tiếp nữa và miệng cũng không huýt sáo tu li tu li. Anh quầy quả trở về trung tâm an dưỡng một cách vội vã như thể sợ muộn một việc gì đó.



Một buổi trưa mùa đông nọ, chị Thanh đi làm về chị thấy nắm củi mình đặt trước hiên buổi sáng vẫn còn nằm yên ở đó. Lòng chị thấy buồn. Nhưng theo thói quen không bỏ được, chị lại đặt thêm vào chỗ ấy một nắm khác, hy vọng trưa đó về nhà chị sẽ không còn thấy lọn củi nào nữa. Nhưng không như chị nghĩ. Chị chưa tới nhà đã nhìn trước hiên, vẫn còn hai nắm củi nằm lạnh lẽo ở đó.

Và  rồi về sau, cứ thế, mỗi buổi sáng trước hiên nhà chị Thanh lại có thêm một nắm củi.

    Một hôm cùng mùa đông năm ấy, người đi đường không thấy những nắm củi trước hiên nhà chị Thanh nữa. Và ngôi nhà số 12 đường Nguyễn Huệ cũng đã khòa cửa. Và cũng từ đó, bọn trẻ con đường Nguyễn Huệ không còn nghe tiếng húyt gió tu li tu li của chú thương binh vào những buổi sáng mùa xuân đẹp trời cũng như những ngày mùa đông lạnh lẽo. Người lớn thì chẳng ai để ý gì, họa chăng một lúc nào đó người ta chợt nhận ra và hỏi nhau: Sao mấy hôm nay không thấy người thương binh điên điên tỉnh tỉnh đi nhặt củi nữa nhỉ, chắc anh ta chết rồi. À mà nầy, có ai biết chị Thanh đi đâu không nhỉ. Tự nhiên đang làm việc bên hội Phụ nữ nửa chừng rồi khóa cửa nhà bỏ đi. Chẳng ai biết chị ấy đi đâu.

Thế  là câu chuyện về anh thương binh nhặt củi, câu chuyện về những nắm củi đặt trước hiên căn nhà số mười hai, cùng câu chuyện về cô chủ căn nhà số mười hai ấy đột nhiên bỏ đi đâu không ai biết, dần dần đã đi vào quên lãng của mọi người trên đường phố Nguyễn Huệ. Nhất là đám trẻ trên đường phố đó. Thế mà chúng lại mau quên hơn ai cả.

                                                                  

                                                                  *

Tại bệnh viện thần kinh X125, có một cặp vờ chồng nuôi nhau đã mấy năm nay. Người vợ nuôi người chồng mắc bệnh tâm thần nhẹ. Trong hồ sơ nhập viện người đàn ông mắc bệnh tâm  thần, tên là Từ Lí. Theo như người vợ kể lại với thân nhân của các người bệnh, chồng chị là một quân nhân, trong một trận đánh vào cuối tháng hai năm 75 anh bị thương ở đầu và mất trí nhớ từ đó. Người ta chỉ biết vậy thôi, không ai hỏi thêm gì về cặp vợ chồng ấy nữa. Người vợ chừng khoảng trên dưới bốn mươi. Nhìn những đường nét trên mặt người đàn bà người ta cũng đoán  được chị ấy có một thời là cô gái xuân sắc. Bởi một vài nét trên khuôn mặt chị, thời gian đã tỏ ra bất lực hay vị một chút tình riêng nào đó mà không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của  Thượng đế giao cho: Hãy trừng phạt Adam và Eva bằng cách làm cho nó phải đau khổ khi nhìn thấy khuôn mặt con cháu nó lúc về già phải biến đổi một cách xấu xí! Nhờ vậy mà khuôn mặt người đàn bà dù ở tuổi trên bốn  mươi mà vẫn còn giữ được nét khả ái và quyến rủ. Còn người chồng thì không ai đoán được tuổi. Cũng không hình dung ra được khuôn mặt người ấy lúc trẻ như thế nào.

  Phòng điều trị của người chồng thuộc tầng trệt của dãy lầu ba tầng. Nó nằm phía góc trái. Trên sân bệnh viện ngay trước cửa phòng, có một cây đa Ấn độ tỏa nhánh rậm rạp mát mẻ. Hai vợ chồng họ ở chung phòng với một bệnh nhân là một cậu con trai trạc mười tám, hai mươi tuổi. Được cả cha mẹ cậu thay nhau chăm sóc. Cậu thanh niên mỗi lần lên cơn động kinh là trốn khỏi bệnh viện, khiến cha mẹ cậu hết sức vất vả tìm kiếm. Có lần phải nhờ cả Công an khu phố tìm giúp.

Nếu chỉ việc người vợ săn sóc nuôi chồng quá chu đáo, thì ở bệnh viện nầy không phải chỉ có một mình chị. Người ta chú ý đến câp vợ chồng nầy bởi cách chìu chồng của người vợ. Chìu chồng một cách quá đáng, người ta nghĩ như vậy. Việc chìu chồng hoặc chìu vợ thì chẳng có gì lạ. Nhưng chìu một người bệnh tâm thần dù người bệnh là chồng, hoặc  vợ hoặc con cái của mình là điều quá khó. Bởi đòi hỏi cùa người bệnh đôi khi hết sức vô lí, ai mà làm theo cho được!

Ngoài việc cơm nươc, giặt giũ, nhận thuốc, phân thuốc cho chồng uống hàng ngày, người đàn bà còn đóng vai một người tình như lúc hai người chưa cưới. Buổi sáng, buổi chiều chị quàng vai anh dạo bước trong sân bệnh viện. Có khi chị cùng chồng đi lang thang cùng anh khắp các con đường vắng vẻ quanh bệnh viện. Được cái là anh hiền lành, ngù ngờ như một đứa trẻ. Không la hét, không đập phá cũng không tìm cách trốn khỏi bệnh viện như cậu thanh niên cùng phòng. Có điều là người chồng mắc một chứng ám thị nào đó mà sinh ra thói quen kì cục, là đi đâu cũng mang một chiếc ba lô con cóc sau lưng, vừa đi vừa   nhặt những que rác anh ta thấy dọc đường bỏ vào ba lô, miệng mỉm cười nói: Củi nhiều quá.Vậy mà chị không can anh, chị còn nhặt giúp anh những que củi rồi bỏ vào ba lô cho anh. Chị cũng cười:-Nhiều củi quá phải không anh? Người đàn ông gật đâu:-Củi nhiều quá.

Chị  bó những nhánh củi nhặt được thành từng lọn nhỏ và xếp ngay ngắn dười gốc cây đa trước cửa phòng, nơi chị dùng làm bếp nấu ăn. Chị đào đất lên và sửa nó lại thành cái bếp mà bộ đội thường gọi là bếp hoàng cầm được dùng trong các chiến dịch.Tối đến chị ngồi cùng anh dười gốc cây lần lượt đôt những bó củi. Ánh lửa lập lòe in hình bóng anh chị lung lình trên mặt đất. Chị hỏi anh:

-Anh có biết bóng của anh là cái nào không?

Người đàn ông chỉ vớ vẩn. Chị cười và chỉ  lại cho anh. Sau đó chị hỏi lại. Mấy lần nhưng người đàn ông vẫn chỉ không đúng.

Một  đêm khác khi đốt lửa xong chị hỏi:

-Đêm  nay anh nấu mấy lon gạo?

Anh cười ngô nghê:

-Ba lon.

Chị  lại hỏi:

-Đơn vị anh mấy người mà anh chỉ nấu ba lon?

Anh lại cười ngu ngơ:

-Một người.

Chị  phá lên cười:

-Đơn vị  chỉ có một người làm sao  mà  đánh giặc? Mà thủ trưởng anh tên gì?

Anh chỉ cười.

Một  đêm khác khi đốt lửa lên chị hỏi anh:

-Đốt lửa như thế nầy anh không sợ địch phát hiện sao?

Anh nhìn lên vòm cây đa tối om rồi lắc đầu.

Chị  nói:

-Lá  đa che kín địch không thấy phải không?

Anh lắc đầu chẳng nói gì. Có lúc chị hỏi tên anh bằng một thứ giọng của cấp trên ra lệnh:

-Đồng chí tên gì? Báo cáo cho tôi biết?

Anh hơi hốt hoảng một chút rồi ngồi lặng im.

Những câu chuyện như thế vẫn diễn ra bên ánh lửa lậplòe dưới gốc cây đa trước sân bênh viện, hết đêm nầy đến đêm khác. Thân nhân của những người bệnh đi ngang qua thấy vậy lúc đầu họ lấy làm lạ rồi sau cũng quen dần chẳng ai để ý.



   Một buổi sáng chị dậy sớm lúc anh đang ngủ. Chị phải về quê lấy gạo và mang thức ăn lên. Biết tính anh không quậy phá, chỉ đi kiếm củi xong là về phòng nằm. Hồi ở trung tâm an dưỡng anh vẫn sống một mình như vậy. Chị gởi anh lại  cho cha mẹ cậu thanh niên nhờ nhận thuốc và thức ăn tối cho anh. Sáng mai chị sẽ trở lại.

Tối  đó không có chị, như thói quen anh ra ngồi dưới gốc cây đa. Anh mang tất cả những bó củi chị chồng dười gốc cây ra đem đốt một lần, anh còn lấy chiếc bếp dầu mà chị dùng để nấu ăn để gần đó, tưới hết dầu hỏa lên rồi châm  lửa. Ngọn lửa cháy lan ra chiếc bếp dầu và gặp can dầu lửa nó phụt cháy dữ dội. Anh dùng tay đập, hai bàn tay anh cháy bỏng, cháy lan lên cả tay áo, nhưng ngọn lửa càng bùng to. Anh hốt hoảng phóng vào phòng trực bệnh viện đập cửa miệng thét lên- Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng ơi cháy to rồi.

Chị  y tá trực hốt hoảng vùng dậy, hỏi trong cơn ngái ngủ:

-Cái gì vậy?

Anh la lên:

-Thiếu tá Hoàng Trung tiểu đoàn trưởng đâu. Nhờ đồng chí báo cho đồng chí ấy biết đang có cháy to. Kia kìa.

Anh chỉ tay qua gốc cây đa, ngọn lửa cháy  hết dầu đang có vẻ tàn xuống.

Người y tá chợt hiểu, nắm ngay cơ hội:

-Đồng chí tên là gì để tôi báo cáo?

-Tôi là Phan Cải, anh nuôi của tiểu đoànX. Nhờ đồng chí báo cáo… tôi vô ý để lửa…

Người nữ y tá vui mừng quàng vai anh thương binh và nói:

-Anh bình tĩnh đi anh Phan Cải à. Lửa hết cháy rồi đấy.



      Chị đi lấy gạo và thức ăn ở quê lên. Mới bước vào cửa bệnh viện thì cô y tá từ phòng trực chạy ra và reo lên:

-Chị Thanh ơi, mừng cho chị, chồng chị đã tỉnh lại rồi.



                                                      *



    Ngày 7 tháng7 năm 1980, anh Cải và chị Thanh rời bệnh viện tâm thần. Chị Thanh mang một bó hoa cùng anh lên tặng bác sĩ Giám đốc.

Giám  đốc bệnh viện bắt tay chị Thanh vui cười nói:

-Chị  là người vợ  tuyệt vời nhất đấy chị Thanh ạ. Tôi chúc anh chị sống những ngày còn lại thật hạnh phúc.

Chị Thanh mỉm cười:

-Cảm ơn Bác sĩ Giám đốc. Nhưng  anh ấy không phải chồng tôi, bác sĩ à.



                                                          7/7/ 2002 NBT

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

DÁNG XƯA TÔI TÌM - Tùy bút của Phan Trang Hy

Phan Trang Hy


                                                        Tặng Nha Trang

      Đà Nẵng tháng 4. Nắng vẫn vậy và con đường Bạch Đằng vẫn vậy. Vẫn nhịp xôn xao của gió sông Hàn. Vẫn còn đây những kỷ niệm dáng xưa.
      Tháng 4 năm 1975, tôi bước những bước dớn dác tìm em ở bến xe. Nghe thằng bạn nói, em ở đâu đó gần bến xe. Thằng bạn nói như in là có biết em ở đó.
     Thật là bể dâu! Cuộc đời này quả là dâu bể. Mới đó, em là cô sinh viên đài các. Giờ, em ở đâu? Tôi tìm em khắp chốn. Những bước chân rã rời, tôi tìm đường, tìm cư xá. Kia rồi! Nhà của em ở kia. Mái lợp tôn xi măng, xinh xắn. Tôi mường tượng ở đó có đôi mắt sáng của em. Ở đó có nụ cười của em. Tôi như thấy em “lười lĩnh”- từ mà em thường dùng - ôm chiếc gối, nằm nghe những bản tình ca. Tôi mường tượng buổi chiều, em ngồi đọc sách, nắng dịu nhẹ. Con mèo tam thể hiền dụi đầu vào chân em. Em bâng quơ hát bài Tuổi đá buồn của Trịnh. Và những lúc vui, em hát bên những chiếc bánh ngọt mới làm thơm lừng. Em vẫn thế, vẫn đi suốt cuộc đời áo trắng trong tôi.
      Tôi vẫn tìm em. Tôi quẩn quanh ở bến xe hàng tuần, chỉ mong tìm được em như lời thằng bạn kể. Nhưng chẳng thấy bóng dáng em đâu. Chỉ nắng, bụi mù. Chỉ có nỗi khắc khoải trong tôi. Tôi tìm em hoài mà chẳng thấy !
      Nhớ thuở học trò, tôi cũng thường tìm em trong mơ ước. Mơ ước đã giúp tôi lớn; mơ ước đã giúp tôi không thành người xấu. Hồi còn học ở Đông Giang, nghe em rủ các bạn đi Non Nước, thế là, tôi cũng tìm cách đi, dù em chẳng hề quan tâm tới tôi. Tôi nhớ ngày ấy, người đông vô kể. Giữa dòng người, tôi mong được gặp em, gặp để chứng tỏ rằng, tôi có thể đến cùng em, như thể rằng Non Nước là nơi tôi được gặp em. Nhưng, vẫn người là người, em đâu chẳng thấy. Tình cờ tôi gặp đứa bạn. Nó chỉ tôi biết em đang ở động Huyền Không. Tôi lại đến động Huyền Không. Sau này tôi mới biết đó chỉ là trò đùa của nó. Bên tai tôi có tiếng nhắc thầm là em đang tìm đường Lên Trời. Tôi bèn tìm đường lên trên ấy. Lên Trời đâu có dễ. Phải bò, phải có chút can đảm, phải có lòng say mê. Tôi trèo lên được. Một không gian hữu tình, một làn gió mát, một chút nắng, chút rạng rỡ... Thế mà, em đâu chẳng thấy. Và tôi lại tìm em.
      Tôi hoà vào dòng người trẩy hội. Vẫn tìm em. Vẫn thầm gọi tên em. Thấy người ta khắc tên của nhau trên những vách đá, tôi cũng bắt chước, tìm tên của một ai đó có trong tiểu thuyết, trong truyện kiếm hiệp có cả tên tôi và em để khắc. Ôi! cái thuở học trò sao ngô nghê dễ yêu đến vậy? Và tôi đã khắc tên của tôi, của em lên vách đá như minh chứng rằng tôi đã yêu em – dù là yêu chưa dám ngỏ.
      Rồi ngày cũng tàn. Người lại vắng. Tôi vẫn đứng dưới chân núi Ngũ Hành đợi em.
      Và rồi, tôi đợi, đợi cái ngày tôi thổ lộ lời nói yêu em vì tôi nghĩ rằng mình đã đủ tự tin mà thổ lộ. Giữa tháng 3-1975, tôi viết thư cho em. Tôi biết không còn thời gian cho bức thư viết vội khi cuộc chiến gần đến ngày kết thúc. Thư tôi gửi qua đường bưu điện. Tôi cầu Trời cho em nhận được thư tôi. Thư tôi chẳng thể nào đến được em, tôi biết vậy. Chỉ buồn vì đến giờ em vẫn chưa hiểu được tình tôi. Không biết bây giờ bức thư ấy có ai cất giùm tôi không? Riêng tôi, bức thư ấy trong lòng tôi vẫn vẹn nguyên như mối tình không trọn vẹn. Và tôi vẫn cứ tìm em...
      Thi thoảng, tôi có đi ngang qua con đường có nhà em ở. Vẫn cư xá đó, nhưng giờ có người khác ở. Tôi tự nhắc mình: một thời ở đó có em. Một thời trong tôi sống dậy. Biết em thích nhạc tiền chiến, tôi cũng bắt chước thích theo. Biết em thích làm thơ, tôi cũng tập tành làm thi sĩ. Tôi tự nhủ lòng là phải học để khỏi hổ thẹn với em. Làm sao tôi quên được cái dáng “mai cốt cách, tuyết tinh thần” của em cùng đôi mắt trong, tròn xoe với lông mày thanh tú. Ai cũng khen em có đôi mắt sáng và hiền. Tôi lấy làm vui vì điều đó, em có biết không?
        Cả tháng 4 năm ấy, tôi bồn chồn tự hỏi, em ở đâu?
      Vẫn những ngày tháng 4, những ngày nắng bắt đầu mọng đỏ ở quê  mình, tôi mơ thấy em cười trong ngày hội ngộ. Bản nhạc ngày xưa, một thời em hát và tôi đã hát theo. Tôi như tìm lại tuổi thư sinh.
      Giờ, em ở xứ người, tôi biết vậy. Biết để mà yên tâm rằng em vẫn còn trên đời này. Vẫn cùng tôi sống dưới vòm trời này. Vẫn nhớ về mái trường Đông Giang nửa phố nửa quê ngày ấy.
     Tôi vẫn còn thầm gọi tên em, gọi trong tiềm thức. Trong tôi, dáng em ngày xưa vẫn tinh khôi, vẫn mộng đẹp. Tôi vẫn thấy em như thời áo trắng. Vẫn còn mãi trong tôi những gì đẹp nhất về em. Và cuộc hành trình trên cõi đời này tôi mãi tìm em.
                                                  
                                                    Đà Nẵng, Tháng 4 - 2010
                                                                Phan Trang Hy

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

NÀNG DÂU NHÀ TÔI - Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước


                                                                                                                                                                                              Không phải tôi sắp hát bài Ba Bà Mẹ Chồng kể về nàng dâu của ban nhạc AVT nổi tiếng năm xưa mà kể chuyện về nàng dâu thực của vợ chồng tôi.   
               
Nhưng trước hết tôi xin tự giới thiệu về mình. Tôi tên là Mẹo, 67 tuổi, tổ trưởng dân phố kiêm chủ tịch hội đồng hoà giải của khu phố. Có nghĩa là khi có gia đình nào cơm không lành canh không ngọt, chén đũa chào xáo thì hội đồng chúng tôi có việc làm chỉ với điều kiện là có đơn hoặc khiếu nại của ít nhất là một người trong gia đình ấy. Khi chén dĩa đang bay vèo vèo thì chẳng ai dại gì mà nhảy vô để lãnh đòn. Cứ ngồi nhà điện báo dân phòng hoặc công an là hết nhiệm vụ. Mình có đến cũng đứng xa xa nghe ngóng hoặc vào một nhà gần đấy hỏi thăm thì sẽ nắm rõ tình hình, sau này dễ phân xử. Làm cái nghề “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, có cái tâm đã đành mà cũng phải biết cách để ứng phó với vạn biến mới tồn tại được. Thấy người ta sống trở lại hoà thuận với nhau thì mình cũng hạnh phúc. Rồi cuối quý cuối năm cũng có cái mà báo cáo điển hình, cũng được tuyên dương khen thưởng. Oai chớ bộ?                                                                                                       

Nói vậy thôi chớ chẳng tài cán chi. Chuyện xã hội, chuyện gia đình người ta thì giải quyết được còn chuyện nhà mình thì đành bó tay chấm com.          

Khi thằng Thành con trai trưởng của tôi lấy con Liên thì bà con lối xóm ai cũng mừng, bảo nó như chuột sa hũ nếp. Số là gia đình Liên thuộc diện bị giải toả. Nhận đất xong thì cha mẹ nó bán đất, chia đều cho con cái, còn vợ chồng ông bà ấy về quê mua đất làm nhà. Riêng Liên được thừa hưởng cái sạp hàng tạp hoá trong chợ nhỏ tại phường vì đã có công giúp mẹ buôn bán bấy lâu. Thành chuyên bỏ hàng nước tương Chinsu. Liên là bạn hàng của nó. Hai đứa quen nhau rồi lấy nhau là chuyện đáng mừng vì thằng Thành đương nhiên sẽ trở thành ông chủ sạp hàng tạp hoá đó. Sau đám cưới, tôi liền mua đất dựng nhà cho vợ chồng nó. Liên cũng bỏ tiền riêng của nó sắm sửa mọi thứ vật dụng cần thiết trong nhà. Thằng Thành chịu tiền ăn uống, điện nước. Có nghĩa là Thành lo phần mềm, còn Liên lo phần cứng. Khi tụi nó có con bé đầu, thằng thành lo sửa, con Liên lo bột. Vợ chồng cùng chung lo như vậy là tốt .                                                                                        

Con bé mỗi ngày một lớn và tiền ăn mỗi ngày một nhiều. Thằng Thành khỏi phải mua sữa nhưng con Liên vẫn chịu tiền ăn cho con bé. Vợ chồng bắt đầu cãi cọ. Rồi đến tiền học càng ngày càng phát sinh. Nào tiền áo quần sách vở, tiền bán trú, tiền quỹ phụ huynh, tiền giúp bạn nghèo, tiền cứu trợ, tiền quỹ đội, tiền quà thăm cô giáo ngày 20 tháng 11, tiền phát thưởng cuối năm, tiền liên hoan, vân vân và vân vân. Không biết người ta  bày ra chi lắm khoản thu như thế. Có lẽ thầy cô thì hỉ hả còn hai vợ chồng nó thì thiếu đường xỉ vả lẫn nhau. Thằng Thành chi nhiều khoản trong nhà rồi, sao con Liên không chịu tiền học cho con bé nhỉ? Trong khi đó, Liên sắm cho mình hai chiếc xe máy, một chiếc wave để đi chợ, còn một chiếc xe tay ga to bự để lâu lâu đi đám cưới cho oai với bạn bè. Thành hỏi tiền đâu mà sắm nhiều thế, Liên nói tiền của mẹ nó cho ngày xưa nó phụ giúp buôn bán, không liên quan gì đến Thành. Nếu vậy, về pháp luật thì đúng nhưng về tình cảm  gia đình thì nghe không ổn.   

Mọi chuyện dù sao cũng qua được nếu như không có vụ nước tương bị bể. Báo đài ngày nào cũng nói nước tương có cái chất gì đó làm người ta ăn vào thì bị bệnh. Không biết có ai chết vì nước tương hay chưa nhưng gia đình thằng con tôi thì tan nát.

Nước tương ngưng sản xuất, thằng Thành không có hàng bỏ chợ. Không có hàng mới bỏ cho bạn hàng thì tiền cũ cũng không được thanh toán. Liên cũng là bạn hàng của Thành, và cũng như mọi người, Liên cũng không thanh toán tiền cũ. Đó là luật gối đầu xưa nay của chợ ta. Không lấy tiền được thì thằng Thành không có tiền để thanh toán với hãng nước tương. Không thanh toán được thì vi phạm hợp đồng, bị hãng nước tương kiện, bị mời lên đồn chất vấn, làm cam đoan. Thằng Thành bán chiếc xe cà tàng lâu nay nó dùng để chở hàng, vợ chồng tôi cũng giúp chục triệu nhưng cũng còn nợ vài triệu, chưa trả đủ. Thành vi phạm hợp đồng, hãng nước tương kiện là đúng nhưng nguyên nhân đâu phải do nó mà chính do nước tương không đảm bảo chất lượng. Thành không thể đóng tiền ăn cho Liên nên bị cắt cơm, phải về nhà tôi ăn. Liên làm đơn xin ly dị. Toà giải quyết bằng cách chia cho Thành cái nhà và có quyền nuôi con. Liên được mang theo tất cả đồ dùng mà nó đã mua sắm. Cái nhà thằng Thàng trống trơn, chẳng có gì bán được để ăn. Hai cha con chúng nó về nhà tôi ở. Còn Liên mua nhà mới và mang tất cả đồ dùng sẵn có dọn đến. Liên có tiền để mua nhà mới gần cả trăm triệu trong khi chồng nó chỉ thiếu hãng nước tương vài triệu nhưng nó vẫn không chi!                                                                          

Li dị rồi nhưng thỉnh thoảng Liên cũng sang thăm con bé. Hai vợ chồng có dịp gặp nhau sao đó mà con Liên lại có bầu và sanh thêm một cháu gái nữa. Khi cháu được ba tháng thì Liên bồng qua thăm ông bà nội, than van về chuyện bấy lâu phải nghỉ bán, không có tiền mua sữa cho con. Liên gởi con cho bà nội nó bồng, nói đi mua sữa rồi đi luôn.

Một tuần sau Liên trở lại, đem theo đủ hoá đơn thanh toán tiền bệnh viện, tiền tả lót và tiền sữa, đòi thằng Thành phải thanh toán. Liên cho con bú rồi lại bỏ đi. Con bé sau một thời gian quên mẹ, nay lại được cho bú, tối đến nó nhớ mẹ, khóc suốt đêm, có lẽ vì  thèm bú. Bà nội nó già rồi nay phần phải giữ cháu, phần phải lo tiền đâu để mua sữa nên sức khoẻ giảm thấy rõ. Tôi cũng không rõ là cháu bé ba tháng mà mẹ nó nói phải tốn tiền sữa bột, trong khi đó, nó cũng có đủ sữa để cho con bú? Mấy người hàng xóm thêm dầu vô lửa bằng cách xúi bà nội nó cấm mẹ con nó gặp nhau! Cũng may là mấy thằng bạn của Thành đứa nào cũng tốt. Lâu lâu có một thằng mang sữa đến cho cháu.                              

Tiết kiệm, tính toán chi li cũng tốt. Nhưng chi li đồng tiền quá đến nỗi vì sợ tốn tiền mà bỏ, chồng bỏ con như con dâu của tôi thì chắc đàn bà chẳng có mấy tay.                                                                               

Chuyện nàng dâu nhà tôi chưa có hồi kết. Dự kiến kịch bản còn phát sinh nhiều tình huống do diễn viên tự biên tự diễn, kể cả tình huống ông nội là tôi đây phải giữ thêm một cháu thứ ba.

NKP

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

LINH HỒN MẦU TÍM - Truyện ngắn Nguyễn Bá Trình






       Khu đất Mò Ó thuộc xóm Cồn Thiên từ trước đến nay là khu dất hoang nằm chênh vênh bên sườn đồi trọc, chỉ mọc toàn là cây mua. Về diện tích, lồi  lên, lõm xuống ven theo triền đồi không thể đo đạc chính xác, chỉ tính những đám bằng bằng chắc cũng được hai hec-ta. Mùa hè khu đất Mò Ó đẹp lộng lẫy như một bức tranh thiên nhiên. Chỉ nội cái màu tím của nó, ai có một chút  đầu óc hội họa  pha thêm một tí  mầu mè của  tâm hồn hoa lá cành thì không thể không sững sờ bởi cái mầu tím cực kì  rực rỡ. Mầu tím của bạt  ngàn hoa mua, mà dân quê ở đây gọi bằng cái tên không mấy thân thiện, là loài  me hoang. Mùa hoa mua nở từ tháng ba chuẩn bị kịp đón ngọn gió Lào nóng khô thổi như sấy tóc.Trong lúc con người ở đây quay quắt với cái nóng gió Lào chết tiệt  thì hoa mua nở tưng bừng.Tím từ lá non, cánh hoa, đến  nhị hoa. Nhị hoa có hương vị  ngọt thanh, nhai một chút là đôi môi của thiếu nữ Cồn Thiên chợt sáng lên một mầu tim diệu kỳ  mà không có loại son môi nào có thể sánh được. Son Hàn Quốc nghe  nổi tiếng vậy nhưng cũng chỉ là mầu tím tối. Có lẽ chẳng nước nào trên thế giới chế biến được một loại son môi, để các cô gái tân thời có  một làn môi xinh đẹp như môi cô gái xóm Cồn Thiên, khi nhai một chút nhị hoa mua thuở đó. Nói thuở đó vì kể từ năm 1972, quân đội Mỹ đem các loại xe cơ giới tối tân đến cày cạt mô đất Mò Ó để biến triền đồi nầy thành một căn cứ quân sự, nhằm cắt đứt con đường tiếp tế cho các các chiến khu đâu đó xa tắp trên dãy Trường Sơn, mà đứng từ Mò Ó nhìn lên chỉ thấy toàn núi non trùng điệp, xanh rì. Lính Mỹ từ ngày lập căn cứ nầy đổ máu không ít, vì phải chiụ đựng những trận pháo kích của quân Giải Phóng. Ruộng của xóm Cồn Thiên không nhiều, không mầu mỡ, nhưng chính nó đã sản xuất ra những hạt vàng cho Bộ đội những năm tháng chiến tranh ác liệt. Triền đồi hoa mua đã bị bào trọc, họa chăng chỉ còn sót một vài đám tiếp cận với bờ ruộng. Nhưng rồi hoa mua  cũng không còn mầu tím nữa, bởi những đoàn công voa suốt ngày đêm chở đạn lên về căn cứ, đã phủ lên cây cỏ  ở đây một mầu đỏ chạch của bụi đất pha  bazan. Số phận của hoa mua trên triền Mò Ó cũng mang nỗi thăng trầm như người dân ở đây.

        Sau khi đất nước thông nhất, những đám cây  mua còn sót lại một lần nữa  bị đào xới tận gốc rễ, bởi chính bàn tay những  người dân Cồn Thiên thiếu đói. Không phải họ đào cây mua lên mà ăn.Thứ cây nầy chỉ làm đẹp chứ không thay được miếng cơm manh áo. Nhưng người dân Cồn Thiên có lẽ từ thời tổ tiên ông bà khai phá ra xóm Cồn Thiên đến nay, chưa hề có được một ngày thư thái để có thể nhận ra vẻ đẹp của quê hương mình. Lấy đâu cảm hứng để nhận ra vẻ đẹp của loài me hoang !  Nói tiếp cái ý do đâu gốc mua bị đào xới. Sau 1975 trước cảnh thiếu đói, căn cứ quân sự Mỹ ở Mò Ó đã đem lại một vài hạt  cơm trợ đói, nhưng nó cũng lấy đi sinh mạng không ít những đứa trẻ và cả ông bà già. Khi ngày ngày họ lên đây đào xới tìm sắt thép, gõ đầu đạn lấy nhôm. Chiến tranh qua đã gần chục năm thế mà trên triền đồi Cồn Thiên thỉnh thoảng  lại vang lên những tiếng nổ rung chuyển đất đá, với những  cụm khói ùn lên như tai nấm khổng lồ ghê rợn. Tiếp theo đó là tiếng gào khóc thê thảm, lúc thì ở đầu xóm,  lúc thì cuối xóm. Tiếng gào khóc nghe  quá uất ức đau đớn.  Hơn cả tiếng gào khóc của người dân Cồn Thiên lúc có người chết thuở còn chiến tranh.

        Một đợt rà mìn trên cồn Mò Ó do Tỉnh đội tổ chức. Sau đó một khu công nghiệp được hình thành.Từ đấy có một câu chuyện về rừng mua, vô tình biến nó  thành khu vườn quái dị như trong  chuyện cổ  tích.

        Mấy năm sau, nói thì mấy năm nhưng cũng đến gần cả chục năm, tính từ khi khu công nghiệp hóa chất bắt đầu hoạt động, vùng ruộng lúa đã từng cho bộ đội những hạt thóc vàng dần dần mất mùa liên tiếp.Có gieo, có cắt, nhưng hạt lúa thu được mùa sau ít hơn mùa trước. Những năm gần đây cây lúa không còn lên được nữa bởi những dòng nước vàng quánh hoặc đen sì  từ khu công nghiệp đổ ra. Trước đây dân Cồn Thiên chết vì chiến tranh thì nhiều bởi đây là căn cứ chìm của Cách mạng. Tiếp theo là chết vì  người dân đào xới để lấy đầu đạn. Hai cái chết tức tưởi mới hết gieo rắc trên xóm Cồn  Thiên, giờ đến lượt cái chết âm thầm đau đớn, nhưng cũng hết sức nghiệt ngã: Chết vì bệnh ung thư! Mấy năm qua số người bị căn bệnh nầy chỉ rải rác. Nhưng mỗi ngày thấy có vẻ nhiều hơn, khiến chính quyền địa phương phải quan tâm. Vừa rồi Bộ Y tế về khám sức khỏe cho người dân Cồn Thiên đã có kết luận: Số người mắc bệnh ung thư  giai đoạn đầu đã lên tới xấp xỉ con số mười. Đó là  chưa kể những bệnh nhân  giai đoạn sau đang điều trị ở các bệnh viện.

       Vợ chồng chị Lành người  xóm Cồn Thiên, trước đây ở cùng cha mẹ, nay cùng một số hộ  được Ũy ban xã cấp cho mấy lô  đất thuộc  vườn mua cổ tích, phiá ngoại vi khu công nghiệp. Hai vợ chồng chị làm công nhân cho một nhà máy hóa chất ở khu Mỏ Ó. Tính đến nay đã hơn bốn năm. Hai vợ chông đang làm ăn khỏe mạnh, dành dụm được ít nhiều, đùng một cái tai họa giáng xuống. Thằng con trai đầu của anh chị đang học lớp mười, một buổi tối ăn xong ôm bụng quằn quại. Ra trạm xá xã uống thuốc đau bụng nhưng  không bớt. Lên bệnh viện Huyện xổ lãi cũng  không có. Vượt tuyến thấu bệnh viện tỉnh chụp hình, thấy khối u trong bụng. Thế là hết! Nó mới mất tháng mười năm ngoái, tính ra đã chín tháng mười hai ngày. Đứa con trai mất, kéo theo cơ nghiệp anh chị góp nhặt gầy dựng bấy nay cũng xem như đổ xuống sông. Anh chị chỉ có một đứa con, đúng là om treo đầu giàn. Giờ đã vỡ tan tành. Từ đó đến nay, anh Lành sinh ra nát  rượu, bỏ bê công việc, chẳng hề bén mảng đến nhà máy. Chị thì bỏ cái  gì  đâu quên đó, chẳng tính toán làm ăn gì được. Một  hôm chị thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình sa sút, sức khỏe cả hai vợ chồng đều suy giảm. Chị hồi tỉnh trước anh. Chị năn nỉ anh bỏ uống rượu:                             
       -Trời thương sẽ cho mình đứa con khác.Cố gắng làm lụng tích lũy cho con cái sau nầy. Mình đang còn trẻ không thể sống hoài như thế nầy được… Chị nói với chồng như vậy. Dù ăn ở chung với nhau một nhà, ngủ chung một giường, mà như thể lần đầu tiên anh nhìn thấy mặt vợ.  Anh trông chị xác xơ mà động lòng. Lỗi nầy chẳng do ai cả, chỉ tại  số trời thôi. Anh hứa sẽ không uống rượu nữa. Một sáng nọ chị mừng khấp khởi khi thấy  anh đến nhà máy xin đi làm trở lại.                             




      Cả vùng đất quanh nhà chị bốn năm trước đây khi chị cùng chồng đặt lát cuốc đầu tiên đắp cái nền nhà, thì cỏ đuôi gà mọc phủ. Đó đây còn  một vài bụi mua tím ngắt lắt lay trước gió. Giờ thì nó biến thành một khoảnh xám xịt, cát chẳng ra cát, đất chẳng ra đất, đang lan dần  tới trước thềm nhà chị. Mấy khóm hoa vạn thọ, mười giờ, anh Lành trồng trước ngõ cho vui cửa vui nhà đều lần lượt bỏ anh chị theo gió bay lên trời. Anh Lành bàn với chị đào một cài rãnh ngăn không cho nước thải từ các nhà máy thấm qua vườn nhà mình.

        Anh Lành đi theo xe áp tải hàng vào thành phố. Ở nhà  những lúc không làm ở nhà máy, chị tiếp tục đào rãnh một mình. Đây là thứ công việc không đẻ ra đồng lợi nhưng không làm không được. Cái mùi  hắc không ra hắc, thối không ra thối, cứ xông vào mũi mỗi khi trời đứng gió. Không ai ăn ở kiểu nầy được. Vậy là phải làm. Nhưng phải làm vào ngày chủ nhật hoặc tranh thủ ngoài giờ lao động. Do vậy từ hôm anh Lành đi rồi, chị đào xới đến hơn bảy giờ tối mới vào lo cơm nước. Ăn một mình cũng khỏe.
      Hôm nay chị định nghỉ tay vì thấy đã chạng vạng tối, nhưng nghĩ còn mấy thước nữa là con rãnh ăn thông ra ruộng. Đến đó là thôi. Chị cố gằng đào thêm một chút nữa, để ngày mai có thể hoàn tất. Vừa vung mạnh lưỡi cuốc xuống chỗ đất cứng chợt lưỡi cuốc  chạm vào một cái gì đó kêu một tiếng rắc giòn như bẻ nhánh củi khô. Chị chú  mắt  nhìn xuống.  Trong thứ bóng tối nhờn nhợt của đầu hôm, chị thấy một bóng người ăn vận  y phục tím ngắt từ dười đáy rãnh lồm cồm chui lên. Chị Lành hết hồn vía, chị thét lên một tiếng, ném cái cuốc ra xa, vắt chân lên cổ chạy. Nhưng chợt có tiếng kêu cất lên từ phía dưới  rãnh:        

       -Chị kia đừng chạy, tôi không làm hại chị đâu.

      Chị Lành nghe ai đó gọi mình, thanh âm không có vẻ gì là tiếng hú dọa  ma quái, chị dừng lại và quay đầu lui nhìn. Bây giờ thì chị thấy  rõ: Một cô gái vận một thứ trang phục mầu tím kỳ lạ. Đặc biệt đôi môi đánh một loại son gì mà phát quang tím rực rỡ. Da mặt thì xanh ngắt như mầu lá.  Từng bước tiến về phía chị. Chị Lành vừa bước  thụt lùi miệng vừa lắp bắp hỏi –Cô là ma? Là Hồ li tinh?

      -Tôi không phải  ma. Cũng không phải yêu tinh -Bóng cô gái  mầu tím trả lời-Tôi là một linh hồn. Linh hồn khác với tinh ma, chị biết không.

        Chị Lành tiếp tục thụt lùi vừa lắc đầu. Bóng cô gái kỳ quái không tiến thêm nữa. Thấy vậy, chị Lành cũng đứng lại nhìn . Cô ta  cất tiếng hỏi lạnh như băng giá khiến chị  rùng mình:

        -Chỗ nầy của tôi ở đã lâu sao bỗng nhiên chị vác cuốc đến đào phá?

        -Khu đất nầy là vườn của tôi mà – Chị Lành cãi - Nhà tôi kia kìa cô  không thấy sao?               
       -Nhà chị cũng thuộc vườn của tôi –Vẫn với giọng âm u  lạnh lẽo bóng  cô gái tự xưng mình là một linh hồn trả lời.

       -Nhưng tôi được chính quyền cấp sổ đỏ kia mà.

       -Nhưng đây là đất của tôi, chị nghe rõ chưa?

       -Đây là đất hoang từ xa xưa, có phải là vườn tược của ai đâu.

       -Có đấy

       Giờ thì linh hồn mầu tím tỏ vẻ bực tức, gằn giọng 
       -Vườn của dòng họ tôi đấy.

       Rồi vặn hỏi chị Lành:

       -Vậy tôi hỏi: Chị nhận cái mà chị gọi là sổ đỏ nhà nước cấp cho chị từ lúc nào?

       -Lâu rồi .

       -Lâu là mấy năm?  Bóng cô gái  mầu tím kỳ quái vẫn chưa chịu buông tha.

       -Cũng gần năm năm nay.

       -Vậy thì trước hay sau ngày mà khu đất nầy còn là vườn hoa mầu tím?

       -Tất nhiên là sau.

       -Thế  thì được rồi, chị hãy đến đây. Linh hồn mầu tím vừa nói vừa bước đến  rãnh, chỗ chị Lành vừa đào. Nhưng chị Lành không dám tới. Bóng mầu tím giục:

       -Chị  đến đây tôi giải thích cho nghe. Tôi không bao giờ làm  hại ai cả.

       Chị Lành vẫn không dám bước tới. Thấy vậy, Linh hồn mầu tím cúi xuống rãnh lấy tay lay lay một cái gì đó rồi kéo lên.

       - Trời ơi-Chị Lành kêu lên kinh ngạc-Một bụi mua tràn đầy hoa tím sáng rực. Linh  hồn mầu tím hỏi:

        -Chị đã hiểu chưa?

       Chị Lành vẫn  lắc đầu tỏ dấu không hiểu.

       -Nầy nhé, tôi ở đây từ thuở có những  bông hoa nầy, mà theo chị nói, chị được cấp giấy phép đến ở khu đất nầy lúc không còn một bụi hoa mua mầu tím nào nữa.  Có phải vậy không?  Nghĩa là chị đến đây sau tôi. Giờ thì rõ rồi chứ.

       Chị Lành vẫn lắc đầu. Chợt linh hồn mầu tím nổi giận:

       -Hãy rời khỏi nơi nầy gấp, đây là đất  lành của hoa mua mầu tím. Bọn các ngươi đã đến đây biến nó thành một vùng đất nhiễm độc, đầy chết chóc .Thấy chưa! -Linh hồn mầu tím chỉ tay lên  những đám khói tỏa ra từ những ống khói trong nhà máy, đang vần vũ trên trời, rồi nói -Tử khí bao trùm trời đất!.Các ngươi đã tận diệt những bông mua mầu tím chúng tôi. Vừa nói, linh hồn mầu tím vừa quất mạnh những nhánh mua, làm những bông hoa biến thành những tia sáng cực tím bay thẳng  vào mắt chị. Hốt hoảng chị Lành bỏ chạy. Nhưng ở đâu chị cũng thấy những tia sáng  tím ngắt từ trên trời xuyên qua những đám khói chiếu thẳng vào chị,  khiến toàn thân chị đau đớn. Chị Lành thét lên.

       Anh Lành đang say ngủ bên cạnh vợ chợt  nghe chị Lành thét, anh giật mình vùng dậy lay vai chị.Chị Lành tỉnh giấc ôm chồng run rẩy

       -Em nằm mơ gì vậy?  Anh Lành ôm chặt vợ cho chị bớt hốt hoảng rồi dịu dàng hỏi.

        Đang cơn kinh hoàng chị Lành không trả lời chồng nổi nữa. Chị rúc đầu vào ngực anh khóc rưng rức. Một lát chị nói:

       -Ta dọn nhà đi ở chỗ khác thôi anh ạ. Giọng  chị chưa hết kinh hãi.

       Chặp lâu sau, chị Lành bình tỉnh trở lại, chị kể cho chồng nghe câu chuyện mình nằm mơ.

       Anh Lành an ủi vợ:

       -Có lẽ em buồn và lo lắng quá sinh ra mộng mị vậy thôi, ngủ đi

       Anh ôm chị thật chặt  vào đôi tay rắn chắc của mình, dỗ chị ngủ.

       Sáng  mai chị Lành nhất định đòi chồng phải ra chỗ  cái rãnh chị đào dở hôm qua, tiếp tục đào sâu hơn để coi có gì dưới đó không. Đào xuống  gần  một tấc nữa,  anh Lành kéo lên một tụm cây ruỗng mục. Nhìn lại đó là một bụi cây mua bị chôn vùi lâu ngày chưa hoai hết. Cũng chẳng có gì lạ. Vùng nầy  trước kia là khu  rừng mua  thì thân cây mua bị chôn vùi dưới đất chưa kịp mục hết là  chuyện bình thường. Có điều là  tối qua chị Lành lại nằm mơ thấy Linh hồn mầu tím kéo một bụi mua từ chỗ nầy lên. Cái đó mới lạ. Trong những câu chuyện thần thoại hai vợ chồng chị đọc hồi nhỏ chỉ có những loại cây cao bóng cả mới  có thần linh tọa. Chẳng hạn cây lê ở đầm Dược Long ,Tào Tháo vì chặt nó để làm nóc cung điện nên bị thần linh hại chét. Còn thân cây mua cao chưa quá đầu đầu gối thì thần nào mà tá túc. Hai vợ chồng chị Lành nhìn nhau  lấy làm khó hiểu.

     Câu chuyện đến tai của một cụ ông trong  xóm Cồn Thiên. Cụ đã sống qua ba thế kỷ tại khu đất nầy. Cụ giải  thích với mọi người theo một quan niệm thần học, và lấy thực tế để chứng minh hẳn hoi.Cụ bảo thằng Mỹ qua đây bào trọc rừng mua nên bị giết. Người dân xóm Cồn Thiên lên đào phá gốc mua nên  cũng gặp tai họa. Những người kinh doanh lên đây thành lập những nhà máy, thải ra chất độc hại làm cây cối bị hủy diệt, nên con cháu cũng mang những căn bệnh ngặt nghèo. Cụ kết luận: Hoa cỏ thiên nhiên cũng có linh hồn. Khi con người tàn phá thiên nhiên chắc chắn sẽ bị báo ứng.

      Ông cụ nói  vậy thì nghe vậy, còn đúng sai chỉ có trời mới biết. Có điều chắc chắn là khi con người đã đầu độc thiên nhiên, thì bằng cách nào đó, thiên nhiên cũng sẽ đầu độc lại con người.

Nguyễn Bá Trình

 bichlien101046@yahoo.com.vn