Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Trang Hy. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Trang Hy. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

DÁNG XƯA TÔI TÌM - Tùy bút của Phan Trang Hy

Phan Trang Hy


                                                        Tặng Nha Trang

      Đà Nẵng tháng 4. Nắng vẫn vậy và con đường Bạch Đằng vẫn vậy. Vẫn nhịp xôn xao của gió sông Hàn. Vẫn còn đây những kỷ niệm dáng xưa.
      Tháng 4 năm 1975, tôi bước những bước dớn dác tìm em ở bến xe. Nghe thằng bạn nói, em ở đâu đó gần bến xe. Thằng bạn nói như in là có biết em ở đó.
     Thật là bể dâu! Cuộc đời này quả là dâu bể. Mới đó, em là cô sinh viên đài các. Giờ, em ở đâu? Tôi tìm em khắp chốn. Những bước chân rã rời, tôi tìm đường, tìm cư xá. Kia rồi! Nhà của em ở kia. Mái lợp tôn xi măng, xinh xắn. Tôi mường tượng ở đó có đôi mắt sáng của em. Ở đó có nụ cười của em. Tôi như thấy em “lười lĩnh”- từ mà em thường dùng - ôm chiếc gối, nằm nghe những bản tình ca. Tôi mường tượng buổi chiều, em ngồi đọc sách, nắng dịu nhẹ. Con mèo tam thể hiền dụi đầu vào chân em. Em bâng quơ hát bài Tuổi đá buồn của Trịnh. Và những lúc vui, em hát bên những chiếc bánh ngọt mới làm thơm lừng. Em vẫn thế, vẫn đi suốt cuộc đời áo trắng trong tôi.
      Tôi vẫn tìm em. Tôi quẩn quanh ở bến xe hàng tuần, chỉ mong tìm được em như lời thằng bạn kể. Nhưng chẳng thấy bóng dáng em đâu. Chỉ nắng, bụi mù. Chỉ có nỗi khắc khoải trong tôi. Tôi tìm em hoài mà chẳng thấy !
      Nhớ thuở học trò, tôi cũng thường tìm em trong mơ ước. Mơ ước đã giúp tôi lớn; mơ ước đã giúp tôi không thành người xấu. Hồi còn học ở Đông Giang, nghe em rủ các bạn đi Non Nước, thế là, tôi cũng tìm cách đi, dù em chẳng hề quan tâm tới tôi. Tôi nhớ ngày ấy, người đông vô kể. Giữa dòng người, tôi mong được gặp em, gặp để chứng tỏ rằng, tôi có thể đến cùng em, như thể rằng Non Nước là nơi tôi được gặp em. Nhưng, vẫn người là người, em đâu chẳng thấy. Tình cờ tôi gặp đứa bạn. Nó chỉ tôi biết em đang ở động Huyền Không. Tôi lại đến động Huyền Không. Sau này tôi mới biết đó chỉ là trò đùa của nó. Bên tai tôi có tiếng nhắc thầm là em đang tìm đường Lên Trời. Tôi bèn tìm đường lên trên ấy. Lên Trời đâu có dễ. Phải bò, phải có chút can đảm, phải có lòng say mê. Tôi trèo lên được. Một không gian hữu tình, một làn gió mát, một chút nắng, chút rạng rỡ... Thế mà, em đâu chẳng thấy. Và tôi lại tìm em.
      Tôi hoà vào dòng người trẩy hội. Vẫn tìm em. Vẫn thầm gọi tên em. Thấy người ta khắc tên của nhau trên những vách đá, tôi cũng bắt chước, tìm tên của một ai đó có trong tiểu thuyết, trong truyện kiếm hiệp có cả tên tôi và em để khắc. Ôi! cái thuở học trò sao ngô nghê dễ yêu đến vậy? Và tôi đã khắc tên của tôi, của em lên vách đá như minh chứng rằng tôi đã yêu em – dù là yêu chưa dám ngỏ.
      Rồi ngày cũng tàn. Người lại vắng. Tôi vẫn đứng dưới chân núi Ngũ Hành đợi em.
      Và rồi, tôi đợi, đợi cái ngày tôi thổ lộ lời nói yêu em vì tôi nghĩ rằng mình đã đủ tự tin mà thổ lộ. Giữa tháng 3-1975, tôi viết thư cho em. Tôi biết không còn thời gian cho bức thư viết vội khi cuộc chiến gần đến ngày kết thúc. Thư tôi gửi qua đường bưu điện. Tôi cầu Trời cho em nhận được thư tôi. Thư tôi chẳng thể nào đến được em, tôi biết vậy. Chỉ buồn vì đến giờ em vẫn chưa hiểu được tình tôi. Không biết bây giờ bức thư ấy có ai cất giùm tôi không? Riêng tôi, bức thư ấy trong lòng tôi vẫn vẹn nguyên như mối tình không trọn vẹn. Và tôi vẫn cứ tìm em...
      Thi thoảng, tôi có đi ngang qua con đường có nhà em ở. Vẫn cư xá đó, nhưng giờ có người khác ở. Tôi tự nhắc mình: một thời ở đó có em. Một thời trong tôi sống dậy. Biết em thích nhạc tiền chiến, tôi cũng bắt chước thích theo. Biết em thích làm thơ, tôi cũng tập tành làm thi sĩ. Tôi tự nhủ lòng là phải học để khỏi hổ thẹn với em. Làm sao tôi quên được cái dáng “mai cốt cách, tuyết tinh thần” của em cùng đôi mắt trong, tròn xoe với lông mày thanh tú. Ai cũng khen em có đôi mắt sáng và hiền. Tôi lấy làm vui vì điều đó, em có biết không?
        Cả tháng 4 năm ấy, tôi bồn chồn tự hỏi, em ở đâu?
      Vẫn những ngày tháng 4, những ngày nắng bắt đầu mọng đỏ ở quê  mình, tôi mơ thấy em cười trong ngày hội ngộ. Bản nhạc ngày xưa, một thời em hát và tôi đã hát theo. Tôi như tìm lại tuổi thư sinh.
      Giờ, em ở xứ người, tôi biết vậy. Biết để mà yên tâm rằng em vẫn còn trên đời này. Vẫn cùng tôi sống dưới vòm trời này. Vẫn nhớ về mái trường Đông Giang nửa phố nửa quê ngày ấy.
     Tôi vẫn còn thầm gọi tên em, gọi trong tiềm thức. Trong tôi, dáng em ngày xưa vẫn tinh khôi, vẫn mộng đẹp. Tôi vẫn thấy em như thời áo trắng. Vẫn còn mãi trong tôi những gì đẹp nhất về em. Và cuộc hành trình trên cõi đời này tôi mãi tìm em.
                                                  
                                                    Đà Nẵng, Tháng 4 - 2010
                                                                Phan Trang Hy

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

NỐI NỤ TIN YÊU - Tản văn của Phan Trang Hy


       
       Những ngày cuối tháng Ba, giòng sông Hàn khẩn trương những giai điệu rộn ràng của trời xuân Đà Nẵng. Những bụi mù, những khói dầu, những tiếng động, những giọt mồ hôi, những bữa cơm ăn vội… cũng không làm mệt những người thợ đang làm nốt những việc để hoàn thiện những chiếc cầu nối hai bờ giòng sông giữa lòng thành phố.
       Xưa phố  bên sông. Giờ sông giữa phố. Và, giờ sông đẹp thêm nhờ những chiếc cầu.
       Đã qua những ngày vui khi Cầu Sông Hàn nối lòng người Đà Nẵng lại với nhau. Nối lòng người Quảng Nam - Đà Nẵng lại với nhau. Mừng Cầu Sông Hàn những người con Đất Quảng từ Tiên Phước, Hiên, Giằng đến Duy Xuyên, Đại Lộc, từ Chu Lai, Thăng Bình đến Cửa Đại, Điện Bàn, từ Hà Nội, Hải Phòng đến Sài Gòn, Đất Mũi… cũng về chung vui. Những người con Quảng Nam, Đà Nẵng nối tình anh em ruột thịt của Vu Gia, Thu Bồn, của Bà Nà, Non Nước… bên giòng sông quê Mẹ.
       Rồi những chiếc cầu mới nối tiếp, những chiếc cầu nối đôi bờ giòng sông Hàn chảy ra Biển Đông. Chợt trong tôi vang lên lời ca của một ai đó: Cầu này cầu ái, cầu ân…Có phải những chiếc cầu trên sông Hàn là cầu ái, cầu ân? Tôi không nghĩ chữ ái ân của chuyện vợ chồng, của những người bạn tình khác giới. Tôi đang nghĩ đến chữ ái, chữ ân trong lời ca ái tử, trong nỗi lòng ái quốc, trong ân tình, ân nghĩa thủy chung.
       Và trong tôi vang lên lời ca Nhịp cầu nối những bờ vui. Lời bài hát ngày nào vẫn như vang trong từng con phố, như thấm trên từng cây lá hai bờ sông Hàn, như lung linh, nhảy múa trên những đèn trang trí, như rộn ràng khúc nhạc biến tấu của giai điệu đường phố trên đường Bạch Đằng, như cánh diều trên bãi biển Mỹ Khê, như những nụ cười rạng rỡ dưới những màn pháo hoa kỳ thú…
       Nhịp cầu nối những bờ vui và những chiếc cầu nối những những bờ vui. Nối cả niềm tin yêu, nối cả gương mặt của tiền nhân với con cháu, nối cả đất liền với biển đảo, nối truyền thống Diên Hồng, Chi Lăng, Đống Đa với Phú Lâm, Gạc Ma. Trong tôi hiện lên điều ước. Ước gì có ngày nào đó, chiếc Cầu Rồng hướng ra Biển Đông có phép thần vươn mình ra tới tận Hoàng Sa, nối bán đảo Sơn Trà với quần đảo Cát Vàng, để Hoàng Sa mãi là của Việt Nam như trong sử sách.
       Cách Cầu Rồng về phía Nam không xa là chiếc cầu mang hình dáng chiếc thuyền với cánh buồm duyên dáng. Tôi ước cánh buồm đó nối những chuyến tàu từ Đà Nẵng tới mọi miền của Tổ quốc. Nối Đà Nẵng với Trường Sa, Côn Sơn, Phú Quốc, Bạch Long Vĩ, Hạ Long, Cồn Cỏ… Nối Đà Nẵng với biết bao cảng trên khắp hành tinh này.
       Tôi tin Rồng và cánh buồm nối khí thiêng dân tộc đến với con cháu Quảng Nam - Đà Nẵng hôm nay, nối anh linh tiền nhân đến với thế hệ mai sau bằng niềm tin và nghị lực, bằng sự yêu thương, hóa giải của mọi con dân nước Việt.
       Trong tôi, những chiếc cầu trên sông Hàn như nối đêm với ngày, như nối tình yêu, ân nghĩa, nối khát vọng lớn lao, nối lòng bao dung, đạo làm người, nối bao điều tốt đẹp đến với cuộc sống hôm nay. Tôi tin chắc một điều là lòng người Quảng Nam - Đà Nẵng nối kết thành một khối vì thành phố của mình. Lòng người Đất Quảng cũng mong kết nối với đồng bào mình đang làm ăn, sinh sống khắp năm châu, cùng với bạn bè chân tình trên thế giới.
       Trong tôi rộn lên lời bài hát: Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta…
       Tôi đứng ở hữu ngạn sông Hàn nhìn những chiếc cầu như nối nụ tin yêu ngày mới.

     Đà Nẵng, tháng Ba - 2013
    Phan Trang Hy

Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2013

BLOGGER SỢ CHỮ - Truyện ngắn của Phan Trang Hy

Tác giả Phan Trang Hy


       Những ngày Tết, ngoài chuyện đi thăm bà con, bè bạn, tôi lại lên mạng. Các trang mạng đều có lời chúc mừng năm mới, đại ý là chúc sức khỏe, chúc tấn tài, tấn lộc, hạnh phúc, an khang… Dẫu là người khó tính đến mấy đi nữa, nhưng khi đọc những dòng chữ ấy, bạn cũng cảm thấy có chút vui như được nghe lời nói, như thấy được nụ cười lịch thiệp, chân tình của người chúc Tết mình.

       Tình cờ, tôi vào một trang blog. Xin phép cho tôi được nêu tên dù có trùng tên của ai đó. Xin chớ hiểu lầm tôi. Tên trang mạng là Blogger sợ chữ. Quả là tên gây ấn tượng!

       Nếu bạn đọc những gì đã lưu trữ, liên kết trên trang mạng này, bạn sẽ thấy tay chủ blog này là tay sính chữ nghĩa, ham lý luận. Hầu hết các bài viết của tác giả đều đụng chạm đến cơm áo gạo tiền, đến con heo, con cá, đến Hoàng Sa, Trường Sa, đến chiến tranh biên giới phía Tây Nam, phía Bắc trong cuộc chiến với Pôn Pôt, với giặc Tàu để giữ từng tấc đất tấc lòng, đến phòng chống tham nhũng, đến luật đất đai… Còn liên kết thì khỏi phải nói, liên kết các tờ báo lớn trong nước, ngoài nước, liên kết với các trang văn học nghệ thuật, liên kết với các trang chính trị, trang blog khác… Nhìn chung, chỉ cần vào trang này, bạn có thể đi tất cả các trang khác. Không sợ tường lửa, không sợ bị mất mật mã, không sợ ai theo dõi, không sợ thiếu chữ nghĩa trên đời này. Kể cũng tiện lợi thiệt, nếu vào trang mạng của hắn ta. Chuyện xưa, chuyện nay đều có; chuyện Đông, chuyện Tây cũng có; chuyện đẻ, đái, chuyện đánh nhau, chuyện chiến tranh, hòa bình, chuyện thiên tai, chuyện thử vũ khí hạt nhân, chuyện hiếp dâm, chuyện bầu Giáo hoàng cũng có… Tất cả có! Nếu mệt, bạn cứ mở trang liên kết thư giãn, có thể đó là trang có những giai điệu tuyệt vời của nhạc thính phòng, có thể là giai điệu nhạc trẻ. Có thể đó là trang mạng gợi cảm, gợi dục. Kể cả chuyện bày vẻ cách làm tình, cách sử dụng sextoy, nếu bạn cần.

       Và rồi theo địa chỉ  mail có trên trang Blogger sợ chữ , tôi đã liên lạc với chủ nhân.

       Ngày thứ nhất trong tháng, tôi mở mail. Nhận được mail của hắn. Cũng chỉ là lời chúc xã giao như bao người mới làm quen trên mạng. Tôi dè chừng hắn. Xem chừng, hắn cũng dè chừng tôi.

       Ngày thứ năm trong tháng, tôi gửi mail cho hắn. Tôi chờ hắn trả lời. Vẫn bặt tăm. Mãi đến cả tuần sau, tôi mới nhận được mail của hắn. Qua mail, hắn xin lỗi tôi vì sự trễ nãi trả lời của hắn. Và hắn đã nêu lý do rất chính đáng là vì hắn bận tham gia quỹ từ thiện góp công, góp sức, góp của cứu giúp những người bị bệnh “thiếu óc, “thiếu tim”. Lần đầu tôi mới biết đến thuật ngữ y học: thiếu óc, thiếu tim.

       Tôi gửi mail chúc mừng hắn tham gia làm từ thiện. Và rồi mail qua, mail lại, tôi như cởi mở với hắn; hắn cũng vậy. Tôi và hắn trải hết lòng với nhau. Tôi thầm cảm ơn Internet. Có thể, tôi e dè, khó bắt chuyện khi đối diện với ai đó. Nhưng qua mạng, tôi viết những dòng chữ bằng sự nghĩ suy chân thực của lòng mình. Tôi nghĩ qua mạng, một ai đó khủng bố bạn, nói xấu bạn, hoặc viết tốt về bạn thì đó cũng là lòng thực của kẻ ấy với bạn. Qua mạng, hầu như, dù nickname nào đi nữa, thì người ấy vẫn chính là người ấy. Tính tốt, tính xấu, tính ác, tính thiện đều thể hiên rõ qua những comment, những mail…

       Tôi lại vào mạng. Tra cứu thuật ngữ y học: thiếu óc, thiếu tim, nhưng vẫn không hiểu đó là những căn bệnh gì. Tôi chỉ còn biết tự hỏi với lòng như một đứa học trò nhỏ. Nào là: Bệnh thiếu tim là gì? Bệnh thiếu óc là gì? Tại sao có căn bệnh đó trong cõi đời này? Phải làm gì phòng, chống được căn bệnh đó? Tôi vẫn không tìm ra câu trả lời đúng nhất.

      Tôi vẫn ngồi trước laptop nghĩ  suy về căn bệnh mới, lạ này. Đầu óc tôi như  căng cứng. Tôi như không làm chủ được nghĩ  suy của mình. Tôi thấy trước mắt tôi là bóng dáng của ai đó. Không rõ lắm! Hắn tự xưng là Blogger sợ chữ, và hắn mời tôi sáng mai uống cà phê tại quán Hương Xưa. Tôi cười và nhận lời.

       Tính tôi vẫn vậy. Không muốn trễ giờ, sai hẹn, nên tôi đến quán sớm khoảng 10 phút. Sáng nay, thấy tôi ngồi một mình, chủ quán đưa tờ Thanh niên cho tôi đọc. Tôi gật đầu, cảm ơn chủ quán. Trong khi chờ đợi hắn, tôi lật vội những tin. Tôi bắt gặp bài thơ Tổ quốc nơi biên thùy của Nguyễn Việt Chiến. Tôi thấy dòng chữ Tưởng nhớ những chiến sĩ hy sinh ở biên giới năm 1979 như đỏ lên. Ngoài trời mưa đang rắc hạt. Trời hơi se lạnh, cái lạnh của những ngày trong tiết Vũ thủy. Nhìn những hạt mưa, nhìn những cây lá trong cái lạnh đầu xuân, tôi như thấy cả một trời biên giới năm xưa qua bài thơ tôi thầm đọc. Bài thơ có giọng bi hùng. Tôi thoáng buồn, nhưng tin tưởng!

       Quán cà phê này, so với quán khác, có vẻ yên tĩnh. Quán có mở nhạc vừa đủ nghe. Khác hơn mọi khi, hôm nay, tôi được thưởng thức những bản nhạc nổi tiếng của Phạm Duy. Tôi như tắm mình trong dòng chảy âm thanh của những giai điệu quê hương. Tôi như tắm trong suối nhạc tự do của một con người đi suốt Con đường cái quan đất nước, có lúc hét to bởi những “tục ca”, gào lớn bởi những “đạo ca”, nhưng hơn hết là dạt dào, dịu dàng của những “tình ca” như có cả bóng dáng của những bà mẹ quê, những đứa trẻ chăn trâu, của năm tháng cha ông đi mở cõi... Tôi nhẩm hát theo: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…”.

       Tôi  đứng lên, như một ca sĩ, tôi hát cùng Đức Tuấn, Mỹ Linh trên màn hình. Cả quán cà phê như hòa nhịp cùng lời hát… Như thể chúng tôi được cuốn vào điệu hồn dân tộc.

       Trước mắt tôi, biết bao người cùng tôi hát. Bên cạnh tôi là  một cô gái. Cô mỉm cười và hát cùng tôi: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…”.

Và rồi, cô ta tự giới thiệu cô là Blogger sợ chữ. Trời ơi, Blogger sợ chữ đây ư? Tôi không ngờ cô ta trẻ đẹp đến thế! Tôi sững sờ. Và tôi sững sờ hơn nữa khi cô ta nói nhanh, rồi đi cũng nhanh. Chỉ loáng thoáng lời cô ta: “Ông có biết căn bệnh thiếu tim, thiếu óc rồi chứ gì?... Có tim đó, có óc đó, nhưng tim có yêu nhân nghĩa đâu, óc có suy nghĩ chân chính đâu!” Tôi tự hỏi với lòng mình. Con tim yêu thương nhân nghĩa, bộ óc suy nghĩ chân chính không tồn tại trong từng con người sao?

       Các bạn có tin tôi không? Tôi mơ đấy. Chẳng có cuộc gặp ấy đâu. Tôi vẫn đang ngồi trước laptop. Đang đọc báo, tìm tài liệu, kiến thức trên mạng. Vẫn chọn lọc những tin xấu, tin tốt, tin sai, tin đúng. Tôi vào trang của hắn, dù hắn không có bài viết mới, để từ đó tôi có thể xem các trang khác. Tôi nhiều lần gửi mail hỏi thăm hắn. Nhưng tôi không nhận được trả lời.

       Ngày lại ngày, tôi vẫn phải làm việc để tồn tại. Và những khi rảnh, tôi lại lên mạng. Trước khi xem các tin, các bài viết, tôi thường mở mail. Thật là bất ngờ đối với tôi khi tôi nhận được mail của hắn. Tôi xin copy lại mail ấy để hầu các bạn.

  
       Thân gửi bạn Phan Trang Hy!

       Xin bạn đọc những dòng chữ sau, xem như là  tâm sự của Bloggger sợ chữ.

       Có lẽ bạn ngạc nhiên, tại sao tôi sợ chữ? Có thể bạn nghĩ thầm tại lúc nhỏ tôi lười học, không thích tìm hiểu kiến thức của loài người, nên thấy chữ là sợ chứ gì? Xin bạn hiểu cho là sức học của tôi cũng tàm tạm. Đối với tôi, kiến thức, suy cho cùng cũng chỉ là những con chữ ghi lại. Những con chữ biến hóa thành ra vô số triết thuyết, chủ thuyết này, chủ thuyết nọ. Vì thế, khi học những năm đầu đại học, tôi cố đọc triết Đông, triết Tây, đọc Kant, Marx, Lénin, Tôn Dật Tiên, Mao, Gandhi … Tôi cũng có đọc Kinh thánh, tìm hiểu đạo Cơ đốc, đạo Hồi, đọc chiến tranh giữa các tôn giáo, thế chiến thứ nhất, thứ hai, đọc thủ đoạn chính trị, đọc sấm Trạng Trình, đọc tiên tri của Nostradamus, Vanga, … Chữ nghĩa như thể căng cứng trong đầu tôi.

       Thế là, tôi sử dụng cái vốn chữ nghĩa của mình để viết. Tôi viết những bài mang tính lý luận, có khi viết những bài có tính thời sự. Tôi không tô hồng, cũng không bôi đen cuộc đời. Tôi chỉ viết sự thực. Thế nhưng, sự thực ấy lại mất lòng biết bao người. Và cũng chính những bài ấy khiến tôi phải lao đao trong cuộc sống. Không  những tôi lao đao mà ông Tổng biên tập tờ báo “Không dối trá” lại phải khốn đốn, điêu đứng, bị chụp mũ là tiếp tay cho thế lực thù địch.

       Từ đó, nghe cái tên tôi, ai cũng dè chừng. Những bài tôi viết, hầu hết các báo, tạp chí không thể  đăng. Dẫu tôi có lấy bút danh khác, nhưng với giọng văn như tôi, các bài tôi viết cũng không qua mắt được các tay kiểm duyệt. Tôi tự nhủ với lòng: Ai biểu viết sự thực? Nhưng rồi, lòng tôi mách bảo: Không thể dối trá với lòng mình. Không thể dối niềm vui, nỗi buồn của mình được. Không thể trá đen thành trắng được. Thôi thì cứ viết ra, gửi cho bạn bè, người thân, hoặc lập blog, thả lửng trên mạng… Có thể trăm năm sau, hoặc lâu hơn nữa, hậu thế không biết tôi là ai, nhưng có thể ai đó đọc bài của tôi, sẽ biết có một thời sự thực bị cấm đoán.

       Thôi thì thả lửng chữ trên mạng…

       Xin bạn  thông cảm cho tôi.

       Blogger sợ  chữ.


       Đọc xong mail hắn gửi, tôi tự hỏi: Không biết mình có là kẻ sợ chữ không?

  
Tháng 2 – 2013

Thứ Hai, 11 tháng 2, 2013

CHỢT THẤY HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ LÊ CHIÊU THỐNG - Tản văn của Phan Trang Hy



Tết năm nay nghỉ nhiều hơn mọi năm. Vui thật, nhưng cũng có chút bâng khuâng. Khi đánh vi tính cho bài viết này, tôi nghĩ lại những ngày giáp Tết. Đối với tôi, thời gian ấy, công việc quả là bận rộn. Nào là lo nốt những chuyện chưa xong trong năm, nào là dọn dẹp lại nhà cửa, quét dọn rác rưởi cả năm... để đón xuân. Thế nhưng, vẫn có chuyện chưa xong. Lòng tự nhủ lòng thôi thì để rồi sẽ tính.  

   
     Được nhất, thú  vị nhất là giờ phút giao thừa. Ngày thường, vì chuyện này chuyện nọ, dù là người mình yêu thương nhất, đôi lúc cũng có tiếng qua tiếng lại, vẫn có những ý kiến trái ngược nhau, đôi lúc bực mình, tức tối. Nhưng đến phút Giao thừa, các thành viên trong gia đình tôi, không ai bảo ai, tự răn mình, đối đãi tử tế, tình cảm, và tôn trọng nhau. Sau khi cúng Giao thừa xong, các thành viên trong gia đình tôi ngồi quanh bàn uống trà, ăn bánh, mứt... Rồi lì xì mừng tuổi, chúc nhau những lời tốt đẹp cho cả năm. 
 
    Sau đó, tôi chở vợ, cùng con đi chùa. Vài năm gần đây, chiều theo ý vợ, tôi cũng thành tâm khi đến chùa. Giờ phút đầu năm quả là tuyệt diệu. Cảnh chùa khói hương nghi ngút. Đông người thật. Nhưng không ai chen lấn ai. Trước sân chùa, có một cây cảnh vừa tầm, trên mình nó mang những lời chúc Tết, cầu may được ghi sẵn, gọi là “lộc xuân”. Rất nhiều, đủ để mọi người đi chùa lễ Phật có thể “hái lộc” đầu năm.  
 
    Rất nhiều “lộc”. Không biết có phải đó là “lộc” bằng giấy, nên chẳng có ai tranh giành, cướp giựt? Chỉ  có sự nhường nhau, rất lịch sự, tử tế. Chỉ có lời chúc nhau, cùng những cái gật đầu, bắt tay dù người đối diện chẳng mấy thân quen. Lòng tôi dâng lên niềm vui. Ước gì cả năm mọi người lịch sự, tử tế với nhau!
   
     Rồi những ngày Tết cũng sắp hết. Sáng nay, gỡ tờ lịch. Đúng ngày mùng 5. Nhớ lại trước đây, khi còn đi học, ngày này được nghỉ lễ. Không phải là lễ Tết mà là lễ Chiến thắng Đống Đa. Nhưng năm nay tôi chẳng thấy ghi. Trước mắt tôi, tờ lịch nhòe đi, hiện lên hình ảnh Lê Chiêu Thống đang cười mỉa tôi, đang nhạo báng, thách thức tôi. Tôi giương to mắt nhìn. Xem mình có nhầm không. Trong đầu tôi hiện ý của ai đó nói là thời gian sẽ xóa nhòa đi tất cả. Nhưng thời gian dễ gì xóa nhòa lịch sử. Không lẽ thời gian lại hiện lên gương mặt kẻ rước voi về giày mã tổ trên tờ lịch, trên thời gian. Tôi  buồn. Đâu rồi hình ảnh Quang Trung đại phá quân Thanh? Đâu rồi tiếng hò reo thắng lợi giữa Thăng Long? Đâu rồi? Đâu rồi?... 
 
     Sáng nay, ăn nốt những lát bánh tét cuối cùng. Nhai lát bánh chiên, tôi thoáng thấy hình ảnh quân Tây Sơn hành binh ra Tam Điệp, rồi thoáng thấy bữa ăn vội của họ trước trận đánh Ngọc Hồi - Đống Đa. Tôi cũng thoáng thấy hình ảnh các chiến sĩ Hoàng Sa năm nào chưa kịp ăn miếng bánh tét, lại phải đổ máu hy sinh vì nước, vì non. Và trước mắt tôi hình ảnh những người chiến sĩ Trường Sa ăn bánh tét, canh giữ biển trời nước Việt. Ngàn lần biết ơn các anh. Tôi phải gọi thế dù đầu tôi đã bạc! Tôi xin các anh có một chút yên bình để nhâm nhi chút trà, chút mứt... Xin các anh đừng ăn vội bánh tét ngày xuân. Xin các anh cứ thư thả hưởng hương vị quê nhà qua từng thời khắc...    

     Có tiếng điện thoại reo vừa lúc tôi ăn sáng xong. Tôi vội nghe. Thằng bạn thân gọi tôi đi uống cà phê sáng. Rửa miệng, rửa tay xong, tôi đến chỗ hẹn. 
  
    Vẫn còn không khí xuân. Ngồi uống cà phê, nhìn trai gái du xuân, tôi mừng cho những buổi sáng yên bình. Không biết có còn ai không được hưởng vẹn cái tết bên người thân? Không biết có còn ai không được vui xuân trọn vẹn?  

    Trong tôi rộn lên âm thanh mùa xuân. Trước mắt tôi hiện lên sắc màu xuân của dáng vẻ trai gái du xuân. Đặc biệt các cô gái. Các cô đang tinh nghịch, đang chỉ trỏ ai đó. Tôi như thấy bóng dáng Hồ Xuân Hương cùng các cô gái du xuân. Tôi thấy rất rõ các cô tủm tỉm cười, ánh mắt tinh nghịch, đang chỉ trỏ... Và tiếng thơ Hồ Xuân Hương bỡn cợt: Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo – Kìa đền Thái thú đứng cheo leo... Và rồi điệp khúc đứng cheo leo lại vang lên. Các cô vừa nắm tay nhau vừa hát đứng cheo leo liên tục, đến nỗi tượng Sầm Nghi Đống phải đổ quỵ. Có lẽ Thái thú họ Sầm xấu hổ! Ai đời nam nhi lại bị nữ nhi chọc ghẹo là thứ đứng cheo leo? Có đòn nào làm bẻ mặt anh hùng hơn thế? Tôi phục ngàn lần Hồ Xuân Hương và các cô gái!  

    Rồi hình ảnh Hồ Xuân Hương cùng các cô gái biến mất trước mắt tôi. Tôi trở về thực tại.
   
    Hôm nay ngày mùng 5 Tết  âm lịch. Chiến thắng Đống Đa đâu rồi? Không lẽ Lê Chiêu Thống cùng bọn quân Thanh có phép xóa nhòa lịch sử? 

Phan Trang Hy
       

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

ĐAU ĐÁU HOÀNG SA - Truyện ngắn của Phan Trang Hy

Kính tặng các chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa… 

Trường Sa. Ảnh Vũ Anh Tuấn


        Lệ thường, ngày nào cũng vậy, lão Ban lại ra biển. Không nhìn thấy biển là lão cảm thấy sao sao ấy. Lão dễ nổi cáu với vợ. Chỉ cần nhìn thấy biển, nhìn ra ngoài khơi xa là lão mới dịu đi những cáu ghét của cuộc đời. Lão đi biển không phải để nhìn thiên hạ tắm, không phải tập thể dục dưỡng sinh, cũng không phải bông lơn chọc ghẹo những mụ hồi xuân. Lão nhìn biển như thể cho vơi bớt nỗi lòng của mình, khi chẳng biết tỏ cùng ai. Thường là lão đi một mình. Nhưng lần này lại khác. Lão cùng thằng cháu nội ra biển chơi.
        Nhìn thằng cháu đang lượm những vỏ ốc, vỏ sò, những con sao biển, lão thấy hồn mình như nhập vào sóng biển. Vẫn tiếng sóng vỗ bờ, vẫn tiếng rì rào của đại dương, của hồn biển Đông muôn thuở. Vẫn đâu đây từ cõi sơ khai nước mặn, trời nồng. Bỗng thằng Phong - thằng cháu nội của lão - lên tiếng :
        - Nội ơi ! Nội coi nè ! Vỏ ốc này đẹp quá, nội ơi ! - Vừa nói, nó vừa chạy tới khoe lão.
        - Ừ ! Đẹp quá !- Lão khẽ nói.
        Nhìn vỏ ốc trên tay thằng Phong, lão lại nhớ cái vỏ ốc mà lão đã tặng cho Vũ - ba của thằng Phong. Quá khứ ấy như hiện ra trước mắt …
        Lão làm sao quên được cái ngày lão được nghỉ phép về thăm gia đình ở Đà Nẵng. Được trở về đất liền, được thăm vợ, thăm con - thăm cái thằng con trai, cái thằng con mà lão chưa biết mặt, lão cảm thấy sao quá tuyệt vời. Nằm thao thức, nghe sóng, gió mang vị mặn trong đêm, lão không ngủ được. Ngày mai là có tàu vào đất liền. Mừng thật ! Vui thật ! Nghĩ đến vợ con, lão lục tìm trong đầu nên tặng vợ, tặng con những gì ? Ở trên quần đảo này có gì ngoài phân chim, cát vàng, san hô, ốc biển…Tặng gì đây cho vợ, cho con ?
        Vừa về đến nhà, lão chào mọi người. Vợ lão ôm chặt lão, khóc : “Sao anh không ở ngoài đó ? Anh về làm gì ?”. Lão biết vợ quá thương mình nên nói vậy thôi. Chính vợ lão đã khuyên lão ra đảo nhận công tác khí tượng kia mà.
        Nhìn thằng Vũ nằm trên nôi, lão giơ hai tay ra, vừa vỗ vỗ vừa kêu lên : “Ba đây con ! Cho ba bồng tí !”. Thằng Vũ nằm trong nôi khóc ré lên. Thương con, lão muốn bồng con, ôm con. Nhưng mỗi lần lão bồng nó thì nó không chịu. Một bữa, vợ lão lo sắm sửa một ít đồ dùng để lão ra lại đảo, bèn giao con cho lão. Thằng Vũ cứ khóc, không chịu cho lão bồng. Lão lấy những thứ đồ chơi bằng nhựa cho nó chơi, nhưng nó vẫn không chịu nín. Cực chẳng đã, lão bồng con và dỗ. Lão kêu kêu, cười cừời ; lão làm đủ trò ; nhưng thằng bé vẫn cứ khóc. Khóc miết rồi cũng mệt. Mệt nên nó nín. Rồi nó đưa mắt nhìn lão, nhìn khắp phòng. Lão thấy mắt thằng bé nhìn các thứ để ở trong tủ gương như muốn khám phá điều gì đấy. Nhìn con, lão lấy làm lạ. Những thứ trong tủ có gì lạ đâu. Toàn san hô, ốc biển…, những thứ lão mang từ đảo về. Lão bồng con đứng trước tủ. Thằng bé cười - lần đầu nó nhoẽn miệng cười. Lão lấy mấy thứ nhỏ xinh cho thằng bé chơi, nhưng nghĩ lại, lão sợ thằng bé chơi, rồi nuốt bậy, nên lão cất. Thằng bé lại khóc. Cuối cùng, lão chọn cho con một con ốc to bằng nắm tay. Đây là con ốc lão lượm trên đảo đúng vào lúc nghe tin vợ ở nhà sinh thằng Vũ. Thằng bé cầm con ốc, ngậm vào miệng ra chiều thích thú.
        Kể cũng lạ ! Từ khi chơi với con ốc, thằng bé lại muốn lão bồng, lão bế. Chỉ trừ lúc nó thèm sữa, còn thì nó đòi lão bồng chơi cùng con ốc cho bằng được. Nó cũng thích lão hát cho nó nghe, nó cũng thèm lão hôn nó…
        … Lão vẫn nặng nợ với đảo. Đảo là nhà, là phần cuộc sống của lão. Những lúc thương con, nhớ vợ, lão chỉ biết ngồi trên bãi san hô nhìn vào đất liền. Làm sao lão quên được những hoàng hôn. Màu sắc kỳ ảo vàng đỏ tím xanh cả biển. Mặt trời lặn dần xuống biển như thể thiên nhiên đang cất giấu viên ngọc hồng vào trong rương vũ trụ. Chỉ còn thứ ánh sáng diệu kỳ trên biển. Và trong lão sáng lên thứ ánh sáng của đêm, thứ ánh sáng gia đình, quê hương…Lão thèm được nhìn vợ, nhìn con, nhìn những gì thân thương của mình. Lão quên sao được những lần đem thư của con ra đọc. Ngó thế mà thằng Vũ cũng đã lớn rồi. Học lớp 11.Thư gửi cho lão, lúc nào nó cũng nhắc đến con ốc mà lão cho nó. Cũng từng ấy câu chữ, nó cứ viết vào những lá thư gửi cho lão : “Ba biết không ? Bạn bè con, đứa nào cũng trầm trồ vì con có con ốc đẹp. Con đã từng khoe với bọn chúng là con ốc mang cả hình hài của quần đảo Hoàng Sa. Bọn chúng không tin. Nhưng con tin là thế !”.
        Lão cũng tin là thế ! Lão tin quần đảo Hoàng Sa là máu thịt của quê hương. Làm sao lão quên được có lần lão đã dắt thằng Vũ về quê ở tận Quảng Ngãi. Trong lần giỗ chạp, ông tộc trưởng họ Đặng của lão đã từng nhắc rằng lão là kẻ hậu sinh đang kế nghiệp tiền nhân. Mở gia phả, lão rưng rưng đọc những dòng chữ ghi công tích của họ Đặng. Vua triều Nguyễn đã từng phái dòng tộc lão vượt đại dương trấn giữ Hoàng Sa. Lão cảm thấy như máu tiền nhân đang chảy trong cơ thể, tăng thêm nghị lực, tăng thêm tình yêu cho lão trên đảo Cát Vàng. Làm sao lão quên được lúc cúng tế, bà con tộc họ đã bỏ thức ăn, sau khi xong lễ, vào một chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối, thả xuống biển. Mũi thuyền hướng về Hoàng Sa như thể rằng Hoàng Sa không thể quên trong hồn người đã khuất. Trong tâm tưởng lão, lúc nào chiếc thuyền bẹ chuối ấy cũng lớn như những chiếc thuyền của dòng tộc họ Đặng, họ Trần, họ Lê…ở quê lão vâng lệnh triều đình, tiến thẳng Hoàng Sa…Trong lão như trỗi dậy những bài văn tế các thủy binh thời ấy. Nhận lệnh vua, nặng nợ nước nhà, buổi ra đi đâu dễ dàng. Sóng gió trùng khơi, thủy quái dẫy đầy, đến Hoàng Sa đâu dễ. Các thủy binh được tế sống lúc lên đường như thể rằng quê hương vẫn nặng nợ với những người con. Lão bùi ngùi, run rẩy như có ai đang bóp nghẹt trái tim. Lão khóc…
Và lão đã khóc rất nhiều khi nghe tin thằng Vũ hy sinh trên Trường Sa năm 1988. Lão không ngờ như vậy. Kỷ vật cuối cùng của con lão là quyển nhật ký. Lão đã đọc đi, đọc lại hoài. Những dòng cuối cùng lão như thuộc lòng : “Ba ơi ! Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu. Dẫu có hy sinh, con vẫn không hối tiếc điều gì vì đã thực hiện theo lời ba dạy.”. Đến giờ, lão vẫn không biết mình dạy con điều gì. Lão chỉ nhớ những việc làm, những tình cảm gắn bó với Hoàng Sa. Không biết có phải những điều ấy là lời lão dạy với con ? Có lần thằng Vũ cầm con ốc đố lão - lúc nó vừa thi xong tú tài : “Đố ba, trên mình con ốc này có gì ?”. Lão ngạc nhiên sao con lão đố như vậy. Nhìn con ốc, lão cười đáp : “Thì chỉ những chấm, những chấm màu vàng nâu”. Thằng Vũ cũng cười, nói : “Rứa con đố làm gì !”. Rồi nó chỉ từng cái chấm, hỏi lão có giống những đảo mà lão đã từng ở không, nhiều chấm có phải là quần đảo không…Và rồi nó kết luận : “Trên mình ốc có in hình quần đảo Hoàng Sa”. Kể cũng hay hay. Từ đó, nó để con ốc vào chỗ trang trọng nhất. Khi nhập ngũ, đi bộ đội hải quân, nó xung phong đi Trường Sa. Lão không gàn con. Nó cũng có tình yêu đảo như lão kia mà !
       Kể từ ngày thằng Vũ mất, lão như mất hồn. Cứ những đêm rằm, mồng một, lão lại ra biển. Dù nắng, dù mưa, lão vẫn ra biển thắp ba cây nhang hướng về Hoàng Sa, Trường Sa mà vái. Ngoài kia, những con thuyền thả lưới, những chiếc tàu đánh bắt cá sáng rực những ánh đèn như thành phố nổi trên biển. Trước mắt lão hiển hiện những ngư dân cần mẫn, chăm chỉ, chịu khó chịu thương. Trước mắt lão hiện lên những chàng trai giữ đảo, có cả hồn của những người như con trai lão cùng tiền nhân giong thuyền xuôi ngược biển Đông. Nhiều lúc lão lẩm bẩm một mình như đọc thơ về Hoàng Sa…
        Và rồi thành phố Đà Nẵng bổ nhiệm Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Lòng lão trỗi dậy thứ tình yêu biển đảo mà bấy lâu nay ẩn trong tiềm thức. Người họ Đặng hôm nay lại nối tiếp họ Đặng, họ Trần, họ Lê… ở quê lão, như cái thuở cha ông vâng lệnh triều đình ra đảo, gánh trách nhiệm với Hoàng Sa. Lão thấy mình như trẻ lại, khỏe lại và vui hơn. Không vui sao được khi đất đảo quê hương được nhắc đến ? Không vui sao được khi có người dám nhận trách nhiệm nặng mang ? Lời thằng Vũ trong nhật ký sáng rực trong tâm trí lão : “Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu…”.
        Tiếng thằng Phong như đánh thức lão :
        - Nội ơi ! Mai con phải vào thành phố Hồ Chí Minh.
        - Ở thêm ít ngày, được không ? - Lão hỏi như trách .
        - Con phải vào để thầy hướng dẫn làm luận văn .
        - Thế thì phải vào thôi ! Mà này, con làm đề tài gì ?
        - Dạ ! Con làm đề tài về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong mối quan hệ với biển Đông.
        Trầm ngâm một lúc, lão lên tiếng :
        - Gay đó con ! Nhưng phải gắng thôi.
        - Dạ ! Con nghe lời nội.
        Hai ông cháu cùng dắt tay xuống tắm. Nước biển tắm mát cơ thể lão, cơ thể cháu lão. Nước biển Mỹ Khê giống như nước biển Hoàng Sa. Lão nghe mằn mặn bờ môi. Lão đứng lên. Mặc từng cơn sóng đổ trên người, lão nhìn ra xa khơi. Đau đáu là Hoàng Sa trong nỗi nhớ…


                                                           Tháng Năm, 2009
                                                           Phan Trang Hy

(Trích từ tập truyện ngắn Người Thầy Dạy Búp Bê , Nxb Văn Nghệ, 2009

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

ĐẾM NGƯỢC - truyện ngắn Phan Trang Hy




 Mười. . . Chín… Tám… Bảy… Sáu…  

 Năm.
      Ngồi uống cà phê buổi sáng. Một buổi sáng trong lành. Sau cơn mưa rào khi hôm, trời lại sạch. Không khí thơm ngái mùi lá bên đường. Hương lá quyện trong hương cà phê. Trời mưa khi hôm như rửa cả những gương mặt những người ngồi cà phê buổi sáng. Tờ báo sáng đầy ắp những tin tốt lành. Không như hôm qua đầy tin dữ. Chỉ có một đêm mà mọi việc thay đổi, thay đổi như thời tiết, thay đổi như gái đồng trinh bỗng chốc trở thành đàn bà sau một lần ân ái. Bọn tôi vẫn bỡn đùa như những lần trước. Cái quán cà phê vỉa hè này không phải là quán cà phê ngon, sang trọng, nhưng trở thành điểm tụ của bọn chúng tôi trước khi đi làm. Được gặp mặt nhau một chút buổi sáng coi như mình còn tồn tại, là thấy vui rồi.
      Tôi đưa ly cà phê lên nhấp – thường chỉ nhấp nhẹ từng chút. Cà phê ở Đà Nẵng này uống có khác ở Sài Gòn. Cà phê phải đậm đặc, phải có chút hương vị của gió nắng, cát muối. Chỉ cần nhấp một chút là có thể phân biệt đó là cà phê ở đâu. Bọn tôi uống ở quán này không phải vì cà phê mà vì bè bạn. Vẫn cười như mọi khi. Nhưng hôm nay, thằng Anh bỗng reo lên đầy khoái chí:
      - A! A ha... Sao hôm nay có mùi đĩ thế không biết?
      Tôi đưa mũi nghếch lên, hít hít xem cái mùi đĩ đó là mùi gì, ở đâu. Chỉ có mùi nước hoa.  Nhưng không xác định được ở vùng nào. Nhiều tiếng xì xào, đầy châm chọc:
      - Đĩ quá! Đĩ quá đi! Đàn ông mà đĩ quá đi!
      Bọn chúng tôi ngồi ở quán này đa số là trung niên, lão niên. Lâu lâu mới có vài cậu thanh niên đã có vợ ghé xẹt lờ ngồi uống. Cả bọn chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, xem ai là chủ sở hữu cái mùi nước hoa ấy. Tôi cảm thấy mùi nước hoa bắt đầu lấn át cả mùi cà phê. Át cả cái mùi hôi khét của cái bếp đỏ than tổ ong ở góc bếp. Át cả cái mùi thuốc lá đang xổ ra từ những cái miệng ghiền. Rồi tiếng cười vang lên:
      - Ai cưa sừng làm nghé thế?
      - Già rồi mà còn ham!

      ***
      Trời lại đổ mưa rào về đêm. Mùi cây lá thơm toả. Tôi thấy nhẹ nhàng lâng lâng. Thiên nhiên sao kỳ diệu thế? Kỳ diệu như rửa những mùi, những điều khó ngữi lúc ban ngày.

      ***
      Bọn chúng tôi lại ngồi quán vỉa hè như mọi buổi sáng. Vẫn từng ấy người ở quán. Hôm nay, không có cái mùi trai lơ, đĩ thoả. Chỉ có mùi cà phê, mùi thuốc lá, mùi khét của than tổ ong. Bọn chúng tôi nháy mắt cười chúc buổi sáng tốt lành. 

Bốn.
      Trời bắt đầu mưa. Những cơn mưa như xối. Đài báo có lũ đầu nguồn. Tôi nghe mà thương cho bà con sẽ chịu cảnh lũ. May mà tôi được làm việc, sinh sống ở thành phố, nên còn có thời gian để uống cà phê buổi sáng, trong khi còn nhiều người phải bươn chãi từ lúc tinh mơ. Vẫn cái quán bình thường, vẫn những con người cũ. Nhưng hôm nay, khác mọi hôm là vì tôi mặc thêm áo ấm. Những chiếc áo dày, xám, như làm tăng thêm cái lạnh pha chút buồn của tiết Lập đông. Chúng tôi co ro trong chiếc áo ấm. Ngoài trời vẫn cứ mưa. Không dứt. Lâu lâu có những chiếc xe chạy qua làm bắn tung nước trên con đường nhựa. Cầm ly cà phê nóng, chúng tôi thưởng thức vị đời. Có một chút buồn, một chút hạnh phúc. Đủ cả vị đời. Bỗng, trước mắt tôi xuất hiện lão Huyênh. Lão là người uống cà phê hầu như thường trực ở quán này. Lão xuất hiện trong chiếc áo mưa ni lông trong suốt, thấy cả áo quần bên trong. Sao hôm nay lão diện sặc sỡ thế? Lão đã luống tuổi, khoảng trên 75. Dù lão mặc áo mưa, nhưng vẫn lồ lộ bộ áo quần đúng mốt, màu mè lên nước đồng bóng. Lão lên tiếng chào chúng tôi như muốn khoe có quần áo mới lạ. Có tiếng cười như muốn khen đùa vui:
      - Bữa nay có người trẻ hơn cả vài chục tuổi.
       Bỗng ai đó lẩy Kiều:
     - Quá niên đã quá thất tuần, Bảnh bao đúng mốt, áo quần tuổi teen.
      Nghe thế, cả bọn phá lên cười. Lão cũng cười theo. Và rồi, lão tìm chỗ trống để đặt cái tấm thân trên 70 kí. Nhiều lần ngồi nghe lão nói chuyện với một số người, tôi biết lão có tiền gửi ngân hàng, mỗi tháng kiếm lãi trên chục triệu. Nói chung, lão dư dã, ăn tiêu mặc sức, không sợ thiếu tiền tiêu vặt.
      Nếu bạn có dịp ngồi uống cà phê cùng với tôi, chắc bạn thấy áo quần lão đang mặc rất phù hợp với vóc dáng của lão, nếu lão đang độ tuổi 20. Bên cạnh đó, bạn sẽ thấy gương mặt lão căng tròn, da thịt đỏ au. Chưa hết, lão còn đeo một sợi dây chuyền vàng to đùng. Có thể có người châm chọc, nói khía, nói cạnh, gọi đó là dây xích, có thể gọi mĩ miều hơn là dây chuyền làm đẹp thú cưng. Cái giọng của lão cũng lạ với cái tuổi của lão. Giọng lão cứ oang oang. Đúng là kẻ ăn to nói lớn! Nghe giọng lão, tôi chợt nghĩ mấy ai nghèo khó mà to tiếng được? Có lẽ cuộc sống cho lão giàu nên phải có giọng như thế cho xứng với tầm cở.
      Tôi nhìn lão, cười. Lão cũng cười đáp lễ. Sau đó, tôi quay sang nói chuyện với thằng bạn thân. Bạn tôi đưa ly cà phê lên nhấp, rồi đặt xuống, nói:
      - Mi bận tâm làm gì với lão ta! Hồi nào tới giờ, lão như thế cả mà.
       Rồi qua lời kể của thằng bạn, tôi được biết 50 năm về trước, lão có máu vô duyên. Lúc đó, dù là người đã có vợ, con, nhưng lão đeo vàng ở tay, ở chân nữa kia. Cái máu ấy cũng truyền cho con lão. Dù bọn chúng là trai, là gái, chúng cũng xính xáng đeo vàng ở cổ chân, ngón chân. Chưa hết, cũng qua lời thằng bạn của tôi, mỗi lần chạy xe honda, lão nằm dài trên chiếc xe, lái bằng chân, cho xe chạy thục mạng, biểu diễn làm lé mắt những cô gái có máu mạo hiểm. Tôi cũng biết thêm, hiện giờ, lão có 3 mụ vợ ngoài giá thú. Chắc những mụ ấy có máu thích phiêu lưu cùng lão.
      Tôi nhìn lão xem sao lão chịu chơi như vậy. Chợt tôi nghe lão nói, như chào khoe mọi người:
- Mình đi Cẩm Lệ đây!
       Nói xong, lão gọi chủ quán trả tiền, rồi đi. Thằng bạn tôi cười, nói thầm vào tai tôi: “Lão lên vợ bé ở Cẩm Lệ ấy mà”. Qua thằng bạn, tôi biết cô gái ở Cẩm Lệ nhỏ tuổi hơn con gái đầu của lão.
      Nhìn lão ngồi trên chiếc xe đời mới, vẻ trai tráng, tôi thầm nghĩ: “Chắc lão còn phong độ. Không biết lão ăn gì, uống gì mà còn đáp ứng được mấy mụ vợ như thế? Vài ba năm nữa, lão gần 80 rồi, còn gì?
      Thấp thoáng trước mắt tôi là một con người loè loẹt. Không phải chỉ một người mà là một bầy người loè loẹt, đang rú ga, đang đeo kính đúng mốt, đang mặc những bộ áo quần sặc sỡ... Một bầy người đỏm dáng mất hút trước mắt tôi. 

Ba.
      Cuối năm. Để phòng khách có chút mới lạ, tôi tìm mua một vài bức tranh về trang trí lại phòng khách. Có năm, tôi mua những câu đối, kèm theo tranh dân gian. Có năm tôi để trống, chỉ sơ sài tấm lịch trên tường. Có năm tôi treo tranh có thư pháp. Nói chung, mỗi năm tôi cố sửa cho lạ để che lấp những chỗ xấu trên tường dù đã được quét vôi lại. Tôi đang cùng thằng con treo bức tranh Đông Hồ. Năm nay, tôi treo hai bức Vinh hoa, Phú quý mong sao gia đình được phú quý, vinh hoa. Treo để mà ước muốn chút hạnh phúc đến với mình, gia đình mình. Treo vừa xong thì có điện thoại. Chắc thằng An, bạn tôi, chớ chẳng ai khác. Đúng như dự đoán. Tôi nghe giọng nó trong điện thoại: “Anh Lan mời mi lên uống cà phê”. Tôi ầm ừ nói: “10 phút nữa mới rảnh”. Anh Lan là bạn cà phê buổi sẩm chiều của chúng tôi. Anh đã về hưu hơn một năm. Uống cà phê chung quán, thành ra quen biết. Thấy ai thiếu thì cũng có chút nhớ và thường điện rủ uống. Chúng tôi uống theo kiểu Mỹ, ai uống thì tự người ấy trả tiền. Trừ trường hợp có chuyện vui, có niềm hưng phấn thì mới bao. Tôi biết những ngày giáp Tết, hiếm có người không bận. Tìm bạn cà phê có khó. Chắc là chiều nay anh Lan bao tụi tôi.
      Anh ta có tật khoe con, khoe cái. Chủ yếu anh khoe cái là chính. Bởi anh thường khoe thằng rễ. Hôm vừa rồi, anh khoe thằng rễ đi Sing về. Vừa khoe anh vừa lấy sôcôla ra mời chúng tôi thưởng thức, nói là thằng rễ mua biếu anh để anh mời bạn bè cho vui. Quả thật anh vui! Chưa hết, anh còn khoe rễ anh làm chỗ công ty nước ngoài tháng hơn cả chục triệu. Anh còn khoe thằng rễ  mua cho anh cái áo có nhiều màu sắc sặc sỡ, kiểu dáng đúng mốt nhất hiện nay. Thằng rễ anh còn chở anh tới tiệm nhuộm tóc lại cho trẻ ra. Hôm nay, trông anh trẻ hơn cả chục tuổi. Đang tuổi nghỉ hưu, tai anh có lúc nghểnh ngảng, ai nói gì, cũng khó nghe. Nhưng ở anh có điều rất lạ là dù ai đó có nói thầm mà có dính dáng đến các tiếng “tiền”, “gái” là anh sáng mắt, dỏng tai lên và bắt tín hiệu rất nhanh. Anh có khiếu khôi hài và thích đọc những câu thơ, hò vè về chuyện tiền và gái. Hầu như anh thuộc rất nhiều những câu như thế. Ở anh như có cái ăngten gắn ở tai, bắt rất nhanh tần số gái và tiền.
      Anh có thú tiêu khiển là đến các tiệm sửa chữa điện thoại, cop những hình ảnh tươi mát, gợi tình của các cô gái. Đôi khi anh cho chúng tôi xem vài phút video làm tình của một cặp nào đó. Anh nói đàn ông phải có máu như thế mới sống lâu.
      Ngồi xuống, tôi nhìn anh kỹ hơn. Trông mặt anh tươi tĩnh hẵn. Mắt anh chớp chớp đầy sức sống. Anh xôm trò, giọng hưng phấn mời cà phê, chúng tôi khỏi phải trả tiền, kể cả tiền thuốc lá. Rồi anh móc điện thoại ra. Anh bấm bấm. Rồi anh đưa ra khoe.  Tôi chỉ thấy trước mắt mình một mảnh đất đầy cỏ. Cỏ tốt tươi chi lạ. Tốt hơn cỏ vườn nhà tôi. Như con nghé sung sức sau trận nhảy nhót, anh nói anh đã hưởng đám cỏ ấy và chụp lại vài kiểu để làm kỉ niệm. Gương mặt anh đầy hãnh diện như người nghệ sĩ vừa khám phá chân dung đẹp và ghi lại bằng hình ảnh. Anh cũng cho biết nhờ uống đông dược mà được cường tráng, dũng mãnh như tuổi đôi mươi. Anh khoe anh có bài thuốc rất độc đáo cho đàn ông luống tuổi. Đó là bài thuốc Hà Thiên Lộn. Hỏi ra mới biết đó là bài thuốc dân gian. Như anh nói, Hà ở đây là Hà thủ ô, Thiên là viết tắt chữ Thiên môn, còn Lộn là hột vịt lộn. Chỉ cần Hà thủ ô 3 đồng cân, cùng với Thiên môn 5 đồng cân, sao vàng, khử thổ, sắc ba chén còn lại 8 phân, uống liền sau khi sắc xong. Sau đó ăn hai trứng hột vịt lộn còn nóng là có thể vui thú ruộng vườn. Bạn bè nghe anh có bài thuốc tưởng thật. Té ra là chuyện đùa như ông bà ta thường đùa trong chuyện tiếu lâm.
      Trước mắt tôi chỉ có đám đất đầy cỏ. Chẳng thấy người đâu. Nhưng anh khoe chủ của nó còn trẻ lắm. Chỉ như con gái đầu của anh.
      Vài ngày sau gặp lại anh. Tóc anh hoá đen. Trông anh trẻ hơn 15 tuổi. Anh cười vui khoe với tôi và thằng An là anh còn thanh niên lắm.
      Đùng một cái, đang ngồi uống cà phê buổi sáng, tôi nghe tin anh chết khi hôm. Bị tam phòng ở một nhà trọ.
      Loáng thoáng trong tôi hình ảnh đám cỏ. Anh già rồi mà còn cày xới thì đuối sức là chuyện thường. Gìơ biết nói chi đây? 

Hai.
      Quán cà phê này trở thành nơi tào lao thiên địa của bao người. Cứ sáng sớm, hắn đã có mặt tại quán. Cầm tờ báo trên tay, hắn liếc mắt qua những hàng tít lớn. Như nắm chắc cá tin, hắn bắt đầu mở volume. Giọng hắn át cả tiếng xe chạy ngoài đường. Hắn có cái tật khoe chữ và nói trạng. Hắn trở thành trung tâm nghe nhìn của thiên hạ ở quán. Biết là người ta chú mục vào mình, nhưng hắn vẫn tự tin thổ lộ. Cũng chừng ấy lời lẽ. Hôm qua cũng như hôm nay. Tháng trước cũng như buổi sáng này. Hắn cũng phát chừng ấy tin. Hắn có vẻ tự hào cho sự hiểu biết của mình. Không thấy ai cãi lại, mà ai cãi làm gì cho rách công rách việc, điều đó càng làm hắn tưởng hắn là kho kiến thức. Nào là chuyện văn chương chi chướng. Hắn đọc thơ của Nguyễn Gia Thiều và gọi đó là thơ của cụ Nguyễn Du; đọc thơ của Bút Tre gọi đó là thơ của Hồ Xuân Hương. Chưa hết, hắn làm ra vẻ có những nhận định sắc sảo về chính trị, kinh tế. Nào là đồng Euro mất giá, nào là vàng tăng. Nào là Mỹ chỏ mắt vào Trung Đông, vươn tay đến Châu Á; nào là Trung Hoa nuôi tham vọng bành trướng ở biển Đông. Hoặc chuyện Băng cốc bị lũ lụt, với kiến thức học lở dở lớp 8, hắn cho rằng sao người Thái không đổ bê tông làm đê bao quanh Băng cốc. Nếu hắn mà làm Thủ tướng hắn sẽ cho xây đê kiểu ấy... Quả thật, nếu bạn mới nghe hắn trao đổi lần đầu, chắc dễ lầm hắn có 3 bồ chữ, còn để dành cho thiên hạ 1 bồ. Hoặc nếu bạn có tính khôi hài, thì bạn cho hắn chỉ nổ cho vui. Cũng từng ấy chữ được phát ra từ cửa miệng hắn, chẳng khác chi chương trình quảng cáo trên tivi, trên đài.
      Cả tuần nay, quán cà phê vẫn đông người. Nhưng chỗ hắn ngồi không có hắn. Nghe nói hắn đang luyện tập Yoga buổi sáng. Sau đó cùng mấy ả sồn sồn chạy bộ, làm thao tác dưỡng sinh. Hắn không thèm cà phê nữa. Hắn thèm đàn bà. Buổi sớm, hắn bận tập với đàn bà những nhịp điệu thể dục. Hắn bỏ hẵn cà phê buổi sáng. Hắn theo đàn bà. Tôi nghe rõ giọng ông chủ quán, không biết thật hay giả: Thằng chả đang tân trang lại, chuẩn bị kiệu người yêu mà... 

Một.
      Lâu lâu cũng có một vài phụ nữ ghé quán uống. Bình thường là những người theo chồng, hoặc là nhóm bạn bè gặp nhau bàn chuyện tổ chức các đợt họp mặt lớp nhân kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam, hoặc kỉ niệm ngày thành lập trường. Họ đến như cơn gió lạ dễ thương, rồi vụt thoáng qua như hình bóng mờ ảo. Chỉ có thế.
      Thế nhưng, một buổi sáng, xuất hiện hai ả. Tôi thử đoán tuổi. Nhưng nhìn mặt hai ả khó có thể xác định tuổi ở cở nào. Lông mày hai ả được cạo nhẵn, và thế vào đó là hai vết đen được chạm kẻ tỉ mỉ trên hai con mắt được nâng cấp, tròn, gắn lông mi giả, xem tưởng là mắt búp bê. Chưa hết, trên gò má của cả hai, nổi lên vết son đỏ như má con rối nước. Làn môi của cả hai đỏ sậm. Nhìn kĩ mới biết đó là vết xăm trên môi. Hai ả mặc quần sooc trắng, áo thun trắng, trên tay cầm vợt tenis.
      Hai ả ngồi bàn bên cạnh. Dù không muốn nghe, không cần nghe những gì hai ả nói, nhưng tôi vẫn nghe được câu chuyện trao đổi giữa hai người. Cả hai đang tập luyện thi đấu tài năng dành cho quý bà tuổi 60. Trời ơi! Tôi không ngờ hai ả chừng ấy tuổi! Tôi biết hiện nay có rất nhiều cuộc thi dành cho người cao tuổi, thực ra là cuộc thi dành cho người già. Qua chuyện của hai ả, tôi biết đây là cuộc thi  không những tìm sự khéo léo, thông minh mà còn tìm ra cặp đôi đẹp lão trong lĩnh vực cơ bắp lẫn sắc đẹp về già. Do thế, hai ả vừa là bạn bè từ hồi học tiểu học đến giờ, đang cố công luyện rèn thân thể, rèn luyện môn sở trường tenis. Tôi phục hai ả thật sự. Mấy kẻ biết tenis, nhất là nữ. Thế mà giờ cả hai đang luyện tập để thi đấu. Và sau đó là thi sắc đẹp. Tôi nghe rõ tiếng cười lạc quan của hai ả: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt”. Hai ả đang muốn làm người nổi tiếng. Chỉ còn có cách như hai ả đang làm thì may có thể thành người nổi tiếng.
       Bỗng tôi nghe điện thoại reng. Một trong hai ả lên tiếng:
       - Alô!... Ừ!... Bà về bây giờ... - Rồi ả nói - Rõ khổ! Ông nhà đang ốm. Không ai chở thằng cháu đi học. Tôi phải về chở cháu đi đây.
       Cả hai gọi chủ quán tính tiền, sau đó đứng dậy về. Nhìn kĩ hai ả, tôi chợt nhớ ra là mình có gặp ở đâu rồi. Đợi cho hai ả rời khỏi quán, tôi ngoắc tay gọi chủ quán. Khi chủ quán đến bên cạnh, tôi bèn hỏi:
 - Hai ả đó là ai thế?
       Chủ quán đập vào vai tôi, cười cười, chọc:
       - Bộ không biết thật à? Mụ Tình và mụ Tịt đó mà.
       À ra vậy. Tôi có biết. Tôi nghe đồn hai mụ, phải gọi là mụ, chứ không phải là ả vì tuổi hai mụ quá sáu mươi, rằng hai mụ còn gân lắm. Hèn gì hai mụ chuẩn bị thi tenis và sắc đẹp.
       Tôi cũng biết tin sốt dẽo cuộc thi này. Chả là Công ty Sữa Tắm Dê đang tài trợ cuộc thi cặp đôi đẹp lão. Đối tượng thi không phân biệt giai cấp, thành phần xuất thân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo. Với tinh thần còn nước còn tát cho sắc đẹp lúc từ giã trần gian bất cứ lúc nào, công ty sẽ tài trợ cho những người dự thi suốt quá trình diễn ra cuộc thi. Ban giám khảo gồm các ca sĩ, nhạc sĩ, đạo diễn có hạng thuộc tuổi teen. Ngoài các phần thi giống như các cuộc thi hoa hậu từ trước đến nay, thì cuộc thi này có thêm tiết mục đánh tenis, nhảy Lambada, hoặc điệu Samba từ bên Brazil để ban giám khảo chấm và khán giả bình chọn qua tin nhắn hoặc qua mạng.
      Vừa uống cà phê vừa đọc cái thông báo ấy, cả bọn chúng tôi đều lên tiếng: “Có thế chứ! Phải có sân chơi cho những người gần đất xa trời như thế là thể hiện sự quan tâm của xã hội dành cho người già. Không lẽ các sân chơi chỉ dành cho tuổi trẻ? Già rồi mới có thời gian rãnh để vui chơi chứ. Thế là tốt thôi!”.
      Không may cho tôi, về nhà tôi bị cảm sốt. Không được đi uống cà phê, không được nghe tin thời sự, không xem được buổi truyền hình trực tiếp cuộc thi do Công ty Sữa Tắm Dê tài trợ, tôi thấy buồn chi lạ. Nhưng ốm phải chịu thôi biết trách ai bây giờ.
      Thế rồi, tuần lễ sau, tôi khỏi bệnh và lại đi uống cà phê như lệ thường. Có đám tang đi ngang qua quán cà phê. Tôi nghe mọi người nói đó là đám tang mụ Tịt. Có người kể lại, khi ban giám khảo hỏi câu hỏi trong vòng thi sắc đẹp: “Nếu bạn là hoa trong cuộc thi này, bạn sẽ làm gì với danh hiệu ấy?”. Nghe tới đó, mụ ấp a ấp úng: “Thưa... ban giám... khảo..., thưa quý bạn... Nếu được... ban giám... khảo..., mọi người... yêu...quý...bình chọn... tôi là... hoa..., tôi... sẽ...”. Nói đến đó, mụ ngất xỉu. Một trường hợp quá xúc động đến nỗi ban giám khảo, ban tổ chức, khán giả không lường trước được.
      Mụ chết khi trên đầu chưa có vương miện đăng quang. Còn mụ Tình, nghe đâu mụ đang nằm viện.

Tháng 4 - 2012
Phan Trang Hy
phantranghy@gmail.com