Hiển thị các bài đăng có nhãn Phiếm luận. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phiếm luận. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

TÍNH CÁCH NHÂN BẢN TRONG VĂN CHƯƠNG - Nhã My


 
NHÃ MY - SƯƠNG LAM
Tên thật: Lâm thị Ngọc Sương
Sinh năm: 1953
Quê quán: Bến Tre (Kiến Hòa)
Làm thơ, viết văn với nhiều bút hiệu và tên thật có bài đăng rải rác trên các 
các tạp chí văn học trước và sau năm 75 như Nghệ Thuật, Gia Đình, Khởi Hành, Thời Tập, Tư Tưởng, Tuổi Trẻ chủ nhật. 
Nghỉ viết một thời gian dài, các bài sau này khi viết lại đăng trong trang blog cá nhân ( suongLam-NHAMY) và đăng thơ trong Thư Quán Bản Thảo, Blog Tiếng Thơ Tình Người, tạp chí Tiếng Quê Hương
Hiện đang sống tại Washington USA.



TÍNH CÁCH NHÂN BẢN TRONG VĂN CHƯƠNG                                                                      -  Phiếm luận                                                                                       
        Từ  "nhân bản" (humanisme) hiểu theo nghĩa thông thường và dễ hiểu là những câu chuyện, đề tài có liên quan tới con người, lấy con người nói chung làm gốc. Con người tức bản ngã cá nhân của chính ta (cái ta, tôi) và tha nhân (người khác) tức những người ở xung quanh ta, có mối liên hệ (bà con giòng họ) với ta hay chỉ là người xa lạ (nói chung là nhân loại). Đã là con người thì ai cũng phải có thể xác và tâm hồn. Con người ngoài bản năng sinh tồn (vật chất ăn, uống, ngủ , nghỉ) còn có khả năng suy nghĩ, cảm xúc thuộc về  tâm linh (chính  đây mới là điều đặc biệt quan trọng của con người khác với thú vật ) .
        Văn chương là sản phẩm của con người, do đó hầu hết các đề tài, tác phẩm văn học đều ưu tiên viết về con người. Các nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ, biên kịch, viết nhạc ngoài tài sử dụng chữ nghĩa lưu loát tuyệt vời còn có một tâm hồn nhạy cảm, cảm mảnh liệt và dồi dào. Từ những hình tượng tầm thường, những đồ vật vô tri vô giác, hay cảnh sắc ở xung quanh, đã được nhân cách hóa tạo nên những áng văn hay, bài thơ đẹp, khúc nhạc vui (hoặc buồn) để cho chúng ta thưởng thức. Nghe tiếng ve kêu "nức nở buồn hơn tiếng lòng’", "hôm nay buồn mặt trời đi ngủ sớm’",  "cái cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao, ông ơi ông vớt tôi nao, tôi có lòng nào ông hãy xáo măng, có xáo thì xáo nước trong , đừng xáo nước đục đau lòng cò con"
        Với văn tài của người viết, khi thể hiện về những đề tài con người thì xúc cảm và nhận xét càng tinh tế, ý nhị hơn. Cái "ta không còn là ta tầm thường ( ăn diện, tức tối, ganh tỵ, thích chửi bới, hiềm khích,…) mà trở nên cái ta dễ thương, khiêm tốn , biết lắng nghe, biết hòa hợp vào thiên nhiên, cái ta dạt dào tình cảm "một mảnh tình riêng ta với ta""người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"… Từ những "bức tranh sống động" tả cảnh cô bé  “Đi chùa Hương” ( Nguyễn Nhược Pháp) đến cảnh chợ tết (Bàng Bá Lân) hay cảnh đoàn tàu (Tế Hanh) với những tiếng còi  "Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ. Lòng của người đi réo kẻ về đã khiến cho người đọc đắm chìm vào trong những cảm xúc buồn, vui, rạo rực, hay xót xa thương cảm… Khi đọc những tác phẩm văn xuôi khác, mặc dù có là tiểu thuyết (hư cấu) hay tùy bút, ngay cả ký sự thì ít nhiều tâm sự của tác giả (là tha nhân, người lạ hoàn toàn không quen biết với ta) cũng như dễ dàng hòa hợp, được người khác (người viết cũng không biết người đọc là những ai) đón nhận một cách ưu ái (hay khó chịu). Từ những hoàn cảnh giàu sang, phú quí, cao sang tốt đẹp cho đến  khổ sở, bần hèn, nghèo đói dốt nát, tất cả như đều hiện ra trong văn chương, truyện ký. Những con người thật sự với đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố với những sinh hoạt tập quán như một bức tranh xã hội hỗn độn đầy sức sống lấn lượt đi vào văn chương bằng những nét chấm phá vô cùng linh hoạt, rõ ràng. Ta đã gặp một nàng Kiều mà cuộc đời truân chuyên, cay đắng hay một nàng kỷ nữ (ở bến Tầm Dương của Bạch cư Dị) buồn khi nhan sắc về chiều hoặc cũng là kỷ nữ, một người mà (cái nghề) với chế độ phong kiến thời ấy bị xã hội khinh rẻ nhưng cũng là một con người được tác giả vẽ nên với chất người được bình đẳng như muôn ngàn con người khác, cũng có những tình cảm, phút giây “khách không ở lòng em cô độc quá”(Xuân Diệu). Rồi gặp được Chí Phèo, Thị Nở hay những kẻ nghèo hèn khác (trong tác phẩm Sống mòn của Nam Cao), còn nhiều nhiều nữa… Khi mà những mảnh đời rách nát, khổ đau, những con người được coi là ở tận đáy của xã hội đã được các tác giả dựng nên thì trong ý nghĩa tích cực, tự do và bình đẳng văn chương đã nói lên được tính cách nhân bản, nói lên quyền (được sống không có sự phân biệt đối xử) của con người. Rồi khi ta đọc Quốc văn giáo khoa thư, Cổ học tinh hoa, Tâm hồn cao thượng, Ngụ ngôn của La Fontaine thì không phải là biết về con người và  học được những kinh nghiệm làm người hay sao. Một tác giả nổi tiếng khác người Trung Quốc là Lỗ Tấn tuy không khẩu hiệu sách động, không "dao to búa lớn nhưng chỉ với những tác phẩm bình thường, những chuyện kể có khi nhỏ nhặt mà đã có một ảnh hưởng rất lớn, làm thay đổi tư duy của một thế hệ, như vậy không phải là tác dụng nhân bản của văn chương sao. Rồi Đoạn tuyệt  (Nht Linh) nói về cuộc xung đột giữa cũ và mới hay Tố Tâm (Hoàng ngọc Phách), một tiểu thuyết tình cảm lảng mạn đã khiến cho có người thương cảm nhảy hồ tự tử , sau này những tác phẩm tiểu thuyết xã hội của Quỳnh Dao (tác giả Đài Loan, dịch giả Liêu quốc Nhỉ) tuy vẫn biết là hư cấu nhưng cũng đã từng làm đắm say cả một thời, và còn nữa, nhiều nhiều nữa, thế giới của văn chương tiểu thuyết thật vô cùng phong phú và hấp dẫn.
        Cũng vì sự hấp dẫn của thế giới văn chương, truyện ký và ngày nay là phim ảnh đã ảnh hưởng rất lớn, sâu đậm đến sinh hoạt tình cảm của con người nên cũng có người phản đối cho là dạy hư giới trẻ con mới lớn. Nhưng nhìn chung, ngoài những ‘’dâm thư’’, truyện kinh dị có hại tới thần kinh, những loại văn tục tĩu vô văn hóa, những chuyện xàm xí bậy bạ  có ảnh hưởng không tốt cho trẻ con mới lớn thì văn chương, thi phú, trong tác dụng tích cực vẫn là một món ăn tinh thần bổ ích và cần thiết cho con người.
        Mà đã là “món ăn” thì thiết nghĩ cũng có nhiều “khẩu vị” khác nhau. Cùng một câu chuyện, một vấn đề có khi được hiểu (mổ xẻ) theo nhiều cách khác nhau. ( Bằng chứng là chỉ có một nàng Kiều mà có biết bao ý kiến, phê bình, tốn hao không biết bao thời gian và bút mực … nói cho vui có khi … tác giả cũng chẳng biết đâu mà rờ!). Có thể tôi thích đọc ký sự du lịch còn bạn thì mê tiểu thuyết người khác lại "kết" chuyện kiếm hiệp …vv… Do đó các cuộc tranh luận về văn chương, triết học thường không có điểm dừng và mọi kết luận cũng ít khi đúng một cách tuyệt đối.
        Cả một khu rừng văn chương hoa lệ đầy sắc màu quyến rũ thì xin mời mọi người cứ tự do bước vào và tự do thưởng thức.


                                               NHÃ MY - SƯƠNG LAM

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Phiếm luận : TẢN MẠN VỀ ĐÔI MẮT - Nhã My


              Ảnh của Tôi
                     Ảnh tác giả Nhã My

Đôi mắt là bộ phận quan trọng của con người. Nhờ có mắt chúng ta mới có được cuộc sống hoàn mỹ. Đã từ lâu trong văn chương sách vở đôi mắt được ví như cửa sổ tâm hồn. Tả đôi mắt của người đẹp thì "làn thu thủy, nét xuân sơn""mắt em là cả dòng sông".  Nào là mắt nai, mắt ngọc,  mắt ướt, mắt biếc, mắt mơ màng, mắt đen lánh (nhánh) hạt huyền, mắt …mơ huyền (vừa đen vừa mơ mộng chứ không phải …huyền …mờ!)

Tác giả của bài này hôm nay không miêu tả về con mắt mà chủ ý nói về những hoạt động của đôi mắt (đương nhiên không phải là khép và mở mắt tức ngủ và thức) đúng hơn là … kết quả có được do mắt làm việc .

                  "Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy ."
                  "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ."

Vâng! Nguyễn Du và Đoàn thị Điểm qua thơ văn đã cho chúng ta biết hai động từ trông và thấy. Trông tức là nhận xét bằng mắt trông qua cửa sổ, trông về quê mẹ (quê cũ). Người con gái đêm khuya ra đứng bờ ao. 

                  Trông cá cá lặn trông sao sao mờ.
                  Buồn trông con nhện giăng tơ.
                  Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai.
                  Buồn trông chênh chếch sao mai.
                  Sao ơi sao hởi nhớ ai sao mờ.
                                                (Ca dao)

Trông cũng có nghĩa là chăm sóc, giữ gìn: trông nhà, trông cửa trông em bé (trông trẻ), trông quán, trông (cửa) hàng. Trông cũng có nghĩa là mong chờ trong ngóng. Thiếu phụ trông chồng, mẹ trông (tin) con. 
Thấy cũng là nhận xét được bằng mắt thấy mờ mờ, thấy rõ ràng, mắt thấy tai nghe. Nhận biết được bằng giác quan nói chung như sờ thấy, ngửi thấy, nếm thấy ... Nhận biết bằng nhận thức cảm thấy, thấy vui, thấy buồn, thấy chán nản , thấy tức ... Thấy không chỉ khi mở mắt mà nhắm mắt cũng thấy một chân trời tím ngắt (?) Thấy ngay cả trong lúc ngủ như mơ thấy mộng thấy. 

                     Lạy trời đêm nay mằm mộng thấy. 
                     Mộng thấy người cho đỡ nhớ thương
                                           (Thơ của bạn LCV) 

Thấy còn để diễn tả một cảm xúc như thấy thương, thấy ghét. Hay để diển tả một sự quá độ (mệt , buồn , nhớ ...) thấy bà, thấy trời, thấy mồ tổ. Thấy được ghép với động từ cũng chỉ sự nhìn như trông thấy, nhìn thấy, dòm thấy, ngó thấy, xem thấy. Thấy là kết quả hiển nhiên của sự nhìn. 

                    "Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
                     Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
                     Ngàn dâu xanh ngắt một màu. 
                     Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai."

Đoàn thị Điểm đã khéo léo dùng hai từ trông và thấy để diễn tả liên hoàn một tâm trạng (bi ai) của chinh phu và chinh phụ lúc biệt ly.
 Vương Xương Linh, một tác giả Trung Quốc viết bài Khuê oán:

                    Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu .
                    Xuân nhựt hương trang thượng thúy lâu. 
                    Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc.
                    Hối giao phu tế mịch phong hầu.

Và kẻ hậu sinh này cũng bắt chước dịch như sau:

                   Trong cung thiếu phụ không sầu. 
                   Ngày xuân trang điểm lên lầu nhìn quanh.
                   Giật mình thấy sắc liễu xanh. 
                   Tiếc chồng vạn dặm công danh chưa về.
                            (Lời than khuê phụ, Nhã My dịch)

Thấy còn được "phóng tầm" ra không gian xa như nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan đã viết:

                   Xế thu người thấy xế thu chưa.
                   Sương trắng dồn lên khắp lối về.

Bây giờ xin mạn bàn tới chữ ngó và coi.

 Ngó là động từ cũng chỉ sự nhìn, để ý tới như ngó chừng, ngó xem, ngó thấy. Bà con với ngó là ngắm như ngắm cảnh (kiểng), ngắm hoa, ngắm núi, ngắm biển. Còn có nghía như ngắm nghía (từ đôi), nghía hàng (tiếng lóng). Ngắm nghía được ghép chung thành động từ kép chỉ sự chăm chú kỹ lưỡng khi nhìn hay lựa chọn. Ngó cũng dùng như từ trên cao nhìn xuống. Người đàn bà vô phước bất lực trước cảnh chồng đi nhậu nhẹt say sưa hay đánh bài phá của, mèo chuột nhăng nhít đã phải kêu lên ''Trời ơi ngó xuống mà coi ''. Nguyễn Du (Cầm diễn giả ) đã thốt lên khi gặp lại người xưa mà nhan sắc bây giờ đã tàn phai theo thời gian năm tháng.'' Đưa con mắt ngó mà mơ. Người xưa thế ấy ai ngờ đổi thay ''(NM dịch).Và đây là một chàng trai nhớ người yêu nhưng chỉ dám'' ngó em chẳng dám ngó lâu. Ngó qua một cái đỡ sầu mà thôi'' (vì quá bận hay vì sợ người khác ... ngó thấy ?)

Coi là xem đi coi hát, coi bói, coi tướng, coi tay, coi trời, coi ngày, coi bộ, coi kìa, coi chừng, coi nhà, coi cửa, coi mạch, coi quẻ, coi sóc, coi thường, coi như là, coi mặt đặt tên, coi kiếng (soi gương) và … coi mắt (coi vợ, coi dâu), coi cọp (cọp dê tức copier ngày trước khi gánh hát về làng thường hát ở sân chợ, sân banh sân khấu lộ thiên khan giả ngồi trong sân chỉ được che chắn sơ sài những ai không có tiền mua vé thì thường leo lên cây hoặc mái nhà gần sân khấu để coi hát cọp)


Dòm tự điển tiếng Việt giải nghĩa là nhìn qua khe hở, hé cửa dòm vào . Dòm là … dò xét, tìm kiếm, dòm trước ngó sau, trông một cách chú ý , để tâm theo dỏi. Dòm ngó là tò mò chuyện riêng tư của thiên hạ (ý không được tốt). Mới đây ở trong nước có scandal ''người đẹp dòm ngực'' khi một cô người mẫu tuyên bố là ngực của cô người mẫu khác là ngực thiệt sau khi cô này đã dòm được lúc bạn đang tắm!

Liếc giải thích theo từ điển là đưa mắt nhìn chếch sang một bên, rảo tròng mắt qua một bên để trông xéo mặt vẩn ngó ngay phía trước liếc trộm, liếc xéo, liếc liếc. Cử chỉ đưa mắt liếc ngay mặt người nào đó rồi liếc trở lai liền được coi như ghét bỏ người đó hoặc tỏ ý hằn học không thân thiện. Liếc cũng là nhìn sơ qua như liếc qua trang sách, liếc mắt nhìn trộm, liếc mắt đưa tình (đá lông nheo). Phan Khôi trong" Tình già" tả cảnh:

                         Hai mươi bốn năm sau .
                         Tình cờ đất khách gặp nhau .
                         Cả hai mái đầu đều bạc .
                         Liếc mắt đưa nhau rồi .
                         Con mắt còn có đuôi
              (đừng nhìn nhau nữa ai ơi .Tuyệt!) 

Còn Nguyễn công Trứ thì cứ … ung dung

                       Liếc mắt xem chơi người lớn bé . 
                       Ngoảnh lưng bàn phiếm chuyện xưa nay .

Nhìn là động từ có nghĩa là chú ý trông như nhìn sửng, nhìn chòng chọc, nhìn trố mắt (giương mắt ra để nhìn cho rõ), nhìn trân trân, nhìn trừng trừng, nhìn trối chết.'' Mẹ già trông con nhìn lá thu rơi.'' ''Nhìn nhau mà lệ ứa .'' Nhìn cũng có nghĩa là thừa nhận nhìn bà con, bạn bè, nhìn … con rơi. 

                      Gặp nhau cũng chẳng dám nhìn.
                      Cứ xem như thể là mình chưa quen.
                                                       (Thơ Nhã My)

Xem: nhìn để biết. Xem cảnh, xem sách, xem hát, xem hội, xem đời, xem truyện.
Xem là xét lại, xét kỹ như xem sổ sách, xem thiên văn, xem tử vi, xem lại.
Xem như là so sánh xem như, xem tợ, xem xem, xem ra


Trên đây chúng ta đã đảo qua một số động từ có dính líu tới đôi mắt. Phải nói là từ ngữ tiếng Việt vô cùng phong phú và sâu sắc. Đó là những từ thuần Việt. Để diễn tả tới những … hệ lụy có liên quan đến đôi mắt người Tàu dùng từ khán, kiến. Ta không dùng những từ này như động từ mà ghép với một danh từ Hán Việt khác thành danh từ kép để diễn tả sự việc có liên quan tới sự nhìn như là khán giả, khán đài, khán phòng, khán thính giả ...  Tuy là những từ được ghép bằng chữ Hán Việt nhưng cũng là từ thuần Việt (nếu tìm trong từ điển tiếng Hoa sẽ được trả lời không thấy vì người họ không xài những từ này)
Ông cha chúng ta đã dày công vun đắp nên một nền văn hóa VN tuyệt vời đầy màu sắc mà mỗi con cháu chúng ta có bổn phận phải trân trong, giữ gìn .

Tiếng Việt còn người Việt còn. Mong lắm thay.(Phạm Quỳnh)

                                                        SƯƠNG LAM

                                         ( Trích Tôi yêu tiếng nước tôi )


******************************************************

                        TẢN MẠN VỀ ĐÔI MẮT
                                     (Bài 2)

                Bất tri tam bách dư niên hậu
                Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như

               (Nguyễn Du –Độc Tiểu Thanh ký )

     Tạm dịch: 


                Ba trăm năm nữa về sau
                Biết ai là kẻ khóc sầu Tố Như

Đôi mắt ngoài nhiệm vụ để xem và thấy thì còn có một nhiệm vụ khác cũng không kém phần quan trọng là dùng để... khóc.Nếu con người không ai ...biết khóc thì thế gian này chắc sẽ là chốn thiên đường còn cặp mắt và tuyến lệ kia sẽ bị ...thất nghiệp .

Đứa bé lần đầu tiên đến trình diện cuộc đời bằng ...tiếng khóc (và nếu nó không khóc được thì nguy to vì có thể là nó không muốn ... gia nhập vào cộng đồng nhân thế nhiều phiền lụy này). Ai mà dám chắc rằng trong suốt cuộc đời mình chưa một lần đã khóc.
Vui khóc, buồn khóc, tức khóc, giận khóc, sướng khóc, khổ khóc.

Khóc từ Hán Việt là khốc (có dấu ô) có nghĩa là khóc thành tiếng và khấp(chữ â) là khóc không (ra) nước mắt, không thành tiếng, khóc ở trong lòng.

Để diễn tả cách khóc từ ngữ VN ta cũng có rất nhiều. Khóc sướt mướt, khóc nức nở, khóc thảm thương, khóc thê thảm, khóc thảm thiết, khóc thê lương, la khóc, gào khóc, kêu khóc, khóc hu hu.

Ở cấp độ nhẹ hơn thì khóc rưng rức, khóc rưng rưng, khóc...sơ sơ. Và còn có khóc thầm, khóc dối, khóc …giả đò.
Khóc là phản ứng của con người khi tình cảm xáo trộn thất thường mà chưa có sự can thiệp kịp thời của lý trí. Khóc cũng có khi vô duyên vô cớ “bỗng dưng muốn khóc’’. Khóc vì vòi vĩnh vì không được thỏa mãn đòi hỏi như trường hợp của trẻ con.

Khóc không chỉ cho riêng mình mà còn khóc ... cho thiên hạ . 

                   Khóc than chi xiết sự tình. 
                   Khéo vô duyên bấy là mình với ta
                                                            (Kiều )
Thông thường thì khi khóc phải chảy (ra) nước mắt. Từ lệ trong tiếng Tàu là chữ mục (có nghĩa là con mắt) có bộ thủy (là nước ). Không nói thẳng từ khóc mà chỉ nói lệ rơi (hay rơi lệ ) lệ ứa (ứa lệ ) nước mắt tuôn rơi, nước mắt rơi sợi vắn sợi dài hoặc đơn giản bình dân hơn chảy nước mắt là ta sẽ hiểu. 

      " Lau mắt đi em lệ ướt vai rồi ..." 

                        (Sang ngang - Đỗ Lễ)

Chữ lệ còn có thêm nghĩa khác (viết khác) là xinh đẹp mỹ miều. Do đó Lệ - tên lót của những người con gái - cũng thường có hai nghĩa. Thường thì ta dùng chữ lệ là đẹp, tránh chữ lệ là nước mắt vì sợ cuộc đời của những người mang tên này sẽ không được vui vẻ.
Tôi có một người bạn có cái tên đẹp mà cũng buồn Đỗ Lệ Hoài Thu. Họ Đỗ đi với Lệ đọc ra âm Việt thì cũng giống như là đổ lệ (khóc). Những ngày còn nhỏ tôi cũng thường hay thắc mắc về cái tên của bạn. Tôi nghĩ là hẳn bố mẹ của cô ấy chắc cũng có ... máu nghệ sĩ nên đặt tên con ... sướt mướt như vậy. Rồi một hôm hỏi bạn thì được biết ... y chang như vậy. Cô ấy sinh ra vào mùa thu khi người cha “theo tiếng gọi của núi sông” đi mất và người mẹ nhớ hoài mùa thu chia ly mà khóc! Về sau không biết có phải vì cuộc đời của cô ấy có thật sự không vui hay không mà khi làm lại giấy tờ bạn tôi bỏ đi chữ Lệ.

                                                         (Nói chuyện bên lề )

Nói về khóc thì có lẽ người Tàu ... ham (mê) khóc nhứt. Trong phim ảnh của Tàu chắc chắn là sẽ có vài cảnh khóc. Diễn viên khóc chưa đủ (đã) họ còn viết thêm tiểu thuyết tình cảm lâm ly bi đát để lấy thêm nước mắt của người đời. Trong đám tang ngoài thân nhân khóc lại còn thuê mướn thêm người ngoài vô khóc (khóc để diễn tả nỗi buồn hay khóc cho người chết được ...vui vì thấy con hiếu thảo,’’bàn dân thiên hạ ‘’tiếc thương!?)

Chiến tranh loạn lạc, chết chóc tang thương đã xô dân tộc VN xa dần với những nụ cười.
Những giọt nước mắt đắng cay khóc cho số phận, khóc cảnh chia ly, khóc vì mất mát tủi nhục cay đắng khổ đau.
Và đêm nay ở nơi cái xứ sở tuyết phủ sương giăng này cũng có một người xa xứ cũng đang ... đổ lệ hoài hương.
                                                                         SƯƠNG LAM