Hiển thị các bài đăng có nhãn Võ Quê. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Võ Quê. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

“ĐỂ MÀ ĐI…” VIẾT NHỮNG TRANG ĐỜI - Võ Quê


                                                                                      
         Một ban mai bình yên, từ Huế vui mừng nhận tập sách “Bên triền sông Ô Lâu”, tản văn của nhà báo Hồ Sĩ Bình, NXB Hội Nhà Văn (10.2012).

     “Cảo thơm lần giở” từng trang… mới hay đây là 39 bài viết được chia làm 2 phần: Tạp bút – Tản văn (30 bài) và Những trang rời (9 bài), đã được đăng trên các báo Tuổi Trẻ cuối tuần, Tuổi Trẻ Chủ nhật, Cửa Việt, Thanh Niên, Thanh Niên Chủ nhật, Tuyển tập nhà văn Việt Nam thế kỷ XX-NXB Hội Nhà Văn, VNtimes, baodulich.net.vn, Doanh nhân cuối tuần, Đà Nẵng cuối tuần, Tạp chí Nhà Đẹp, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, Tạp chí Văn hóa Phật Giáo… Sở dĩ tôi kê đầy đủ tên các báo trên là muốn nói lên rằng với bút lực sung mãn, giàu sức sống Hồ Sĩ Bình đã tạo cho mình một chỗ đứng đầy uy tín đáng trân trọng trên làng báo chí trong cả nước.

Họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận và nhà báo Hồ Sĩ Bình. Ảnh NKP
     Sinh trưởng từ Võ Thuận, một ngôi làng ở Triệu Phong, Quảng Trị, Hồ Sĩ Bình đã được tưới tắm biết bao nhiêu tình tự quê nhà dấu yêu một thuở; thấm đượm hồn phù sa chơn chất nhân văn dân dã từ mạch nguồn sông Hãn non Mai để từ ấy thành chất liệu sống linh hoạt, phong quang cho những trang đời anh thể hiện rất vi tế, giàu cảm xúc. Từng mảng hồi quang lung linh đa sắc từ thiên nhiên, cây cỏ, lá hoa, từng buồn vui phận người đất Quảng đều được Hồ Sĩ Bình chắt chiu, trân trọng trong từng trang viết, các tản văn sau đây đã phản ảnh trung thực hồn văn của Hồ Sĩ Bình: “Phố cây bàng”, “Hoang hoải chạt chìu”, “Lão mai của nội”, “Bên triền sông Ô Lâu”, “Sông hoa thành cổ”, “Những người sống với thủy thần”, “Nơi miền đất cù lao”… Và cũng chính từ chốn cũ thân quen mộc mạc ruộng đồng ấy mà khi trở về Hồ Sĩ Bình đã cảm nhận được nguồn thương cảm, sâu sắc, lắng đọng trong đời  rồi tiếc nuối: “cuộc sống đô thị quen cân đong đo đếm nên khi cận kề với nỗi lòng dân dã chân thật đến kỳ lạ mới ngộ ra rằng: ta đã đánh mất nhiều thứ tình cảm quý giá trong đời.”

“Quê quán ơi!
Bao lần trở lại
Trở lại bao lần
Cũng chỉ để mà đi”
   (Hồ Sĩ Bình)

     “Để mà đi…” Nhưng những cuộc đi của Hồ Sĩ Bình không phải là hành trình vô định. Vốn sống thực tế qua các lần lang bạt kỳ hồ đến nhiều miền, nhiều xứ từ đô thị phù hoa đến nông thôn hẻo lánh trên quê Việt trong tư thế một nhà báo, Hồ Sĩ Bình đã lần lượt gởi đến bạn đọc muôn phương những tản văn lôi cuốn, sinh động với đầy đủ vị, sắc, thanh, hương… Mỗi địa danh Hồ Sĩ Bình nhắc đến trong tập sách “Bên triền sông Ô Lâu”đều gợi lên trong người đọc một cảm giác chung nhất là rất sống động, đầy tình, giàu hình ảnh cùng những nhận định tinh ý có triết lý về người, về đời, có phản biện trước các vấn đề xã hôi đang quan tâm, chú ý; giúp người đọc hiểu, cảm và mong một lần tìm đến từng địa danh kia để cùng chan hòa mạch sống, để cùng được trải nghiệm, thưởng thức, đồng cảm với các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể được định hình từ quá khứ cũng như đang được gieo hạt, ươm mầm từ hiện tại này. Các tản văn “Ký ức xe ngựa”, “Đảo chuông Bà Nà”, “Bụi phấn Đắc Nông”, “Đau với sông Hoài”, “ Ngọn đèn năm cũ”, “Tiếng gọi đò Ca Cút”, “Tâm cảm với rượu cần”, “Đường xưa áo lụa”, “Nỗi nhớ hoa hồng”, “Hẹn mùa hoa gạo đỏ”, “Dinh trấn Ái Tử và Trấn Đàng Trong, “Nếp làng xưa ở hạ nguồn Hương Giang”, “Miếng ngon ở hè phố Hội An”… với bút pháp tài hoa của Hồ Sĩ Bình đã thành những bức tranh đẹp, chân thực có sự tương phản sáng, tối của cảnh; có trong, đục, buồn, vui, cảm hoài, khát vọng của người ở nơi chốn anh qua.

Nhà báo Hồ Sĩ Bình và Võ Quê
Do có mối quan hệ chân thành, mật thiết trải lòng với bạn bè thân hữu thuộc giới văn nghệ sĩ trong quá trình sống, đi và viết, Hồ Sĩ Bình đã làm cho người đọc thấy sự trang trọng, trìu ái, đồng điệu, thâm tình của anh khi viết về các tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Hoàng Phủ Ngọc Tường và nỗi đam mê phiêu lãng”, Nguyễn Ngọc Hưng: “Vịn câu thơ đứng dậy”, Đinh Tấn Phước: “Thơ nhặt vội trên đường”, Hoàng Đặng: “Họa sĩ Hoàng Đặng – Đời vẽ tôi , tên mục đồng”,  Phan Ngọc Minh: “Huế và Minh”,  Đông Trình: “Những bài thơ viết dưới giàn hoa giấy”… Sáu nhân vật tài danh trên đã được anh tái hiện một cách trung thực, thành tâm giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về nhân thân, tính cách, tài hoa của từng nhà văn, nhà thơ, họa sĩ. Tôi tâm đắc với Hồ Sĩ Bình khi đọc những dòng anh viết về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng quê Quảng Trị với tôi, từng có lần tâm sự rằng: “Đất Quảng Trị mình lạ lắm, Hồi mình làm Cửa Việt, người Huế thường về ven thành cổ để mua chanh trong khi Huế không thiếu chanh vì chanh ở mình chua lắm. Tiêu Khe Sanh thì cay và thơm nổi tiếng, ớt thì thuộc loại cay nhất nước ở Triệu Phong, Cam Lộ, còn thơm không đâu ngọt bằng Tân Lâm. Mình là người đã lớn lên, bản chất đã mang nặng tận cùng cái cay đắng, ngọt bùi của quê hương, đã sống thì phải sống đến cùng”. Và cũng nói theo ngôn ngữ của anh. Nỗi buồn là mái nhà nơi mà thi sĩ cư ngụ, có lẽ đằng sau mọi cái làm nên con người anh còn phải kể đến là nỗi buồn vạn cổ”.

     Một ban mai bình yên, từ Huế đọc tập sách “Bên triền sông Ô Lâu”, tản văn của nhà báo Hồ Sĩ Bình. Đọc xong, tôi thầm hẹn: “Ô Lâu, mai mốt tôi về! Thời niên thiếu, mình đã từng là học trò đất Quảng…”

VÕ QUÊ
Huế, Noel 2012
voque_hue@yahoo.com.vn

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

NGHỆ SĨ ĐÌNH HẠP: NỈ NON SÁO TRÚC, NHỊ CẦM - Võ Quê

Nghệ sĩ ĐÌNH HẠP



Nghệ sĩ Đình Hạp sinh năm 1938 tại làng Tả Kiên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Từ nhỏ, Đình Hạp có năng khiếu âm nhạc khi được tiếp cận với các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, tế lễ tại các đình, đám ở trong làng, xã quanh vùng. Do gia đình có truyền thống hoạt động cách mạng, đã có nhiều cống hiến vào các phong trào kháng chiến chống Pháp nên tình yêu nước, tình yêu quê nhà cũng được nung nấu, hình thành trong tuổi thơ Đình Hạp cho đến lúc lớn khôn.

Năm 17 tuổi (1955) Đình Hạp đã cùng người anh ruột vượt tuyến ra Bắc với tâm nguyện góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân, dành độc lập tự do, thống nhất tổ quốc. Xuất phát từ niềm say mê âm nhạc, trong khi ông anh theo học ngành múa thì năm 1958 đình Hạp thi vào ngành trung cấp nhạc dân tộc tại Trường Quốc gia Âm nhạc Việt Nam. Trong ba năm theo học ở nhà trường, Đình Hạp chuyên tâm rèn luyện hai loại nhạc cụ dân tộc là đàn nhị và sáo trúc, tập trung học hỏi phương pháp ký âm nhạc dân tộc.

Năm 1961, vừa tốt nghịêp trường Quốc gia Âm nhạc, Đình Hạp xin vào công tác tại Đoàn Ca kịch Trị Thiên (nay là Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế) đang đóng tại Mai Dịch, Từ Liêm Hà Nội, trong khi người anh của Đình Hạp đã là giảng viên Trường Múa Việt Nam. Trong quá trình ở Đoàn, Đình Hạp đã có điều kiện thực hành sở học nhà trường vào môi trường mới. Đình Hạp đã cùng các đồng nghiệp thường xuyên gặp gỡ, trình tấu, rèn luyện kỹ năng các nhạc cụ. Âm thanh réo rắt của đàn nhị, tiếng véo  von thanh thoát của sáo trúc cùng hòa âm với các ngón đàn của các nhạc hữu khác đã giúp Đình Hạp định hình tài năng cùng thực tiễn sân khấu, ca kịch Trị Thiên. Tại Đoàn, Đình Hạp căn cứ vào tính năng của từng loại nhạc cụ, các bài bản lớn của ca Huế, dân ca Bình Trị Thiên mà viết những bài nhạc cho riêng từng loại đàn tranh, tỳ bà, nguyệt cầm, nhị hồ... Đình Hạp đã có những thành công nhất định khi viết nhạc nền cho một số vở ca kịch Huế như "Con gà chân chì", "Phụng Nghi Đình", "Hoãn cưới" cùng nhiều hoạt cảnh ca kịch khác; Bên cạnh việc viết nhạc nền, Đình Hạp còn viết lời ca để nghệ sĩ Văn Lang đưa vào một số vở ca kịch Huế.

Việc sưu tầm, chỉnh lý, ký âm các điệu lý, dân ca lưu truyền trong dân gian từ trước đến nay là một trong những mối quan tâm của Đình Hạp. Anh đã chịu khó sưu tầm loại hình âm nhạc thuộc nhóm "nồi niêu", những bài bản "Xàng xê kép", "Lai kinh", "Chiến chiến", "Bông man", "Cơn roi mây tắt" ...  Nhiều đồng nghiệp, nhạc hữu ghi nhận công lao khó nhọc đầy trách nhiệm của Đình Hạp trên lĩnh vực này bởi qua các công trình nghiên cứu, sưu tầm, ký âm của Đình Hạp một bộ phận âm nhạc truyền thống trong dân gian không bị thất truyền mà được phục hồi, truyền bá một cách có hệ thống, phục vụ kịp thời các yêu cầu thưởng ngoạn của công chúng.

Năm 1964, nghệ sĩ Đình Hạp bắt đầu có một mối tình nghệ sĩ với Kim Vàng, diễn viên đoàn Ca kịch Trị Thiên cùng chung một sàn diễn với Đình Hạp. Mối tình đẹp đẽ ấy kéo dài đến 6 năm với nhiều kỷ niệm xuân thời. Năm 1970, Đình Hạp - Kim Vàng chính thức làm lễ cưới tại Hà Nội và họ đã sinh hạ được hai người con gái mà hiện nay đã trở thành hai nghệ sĩ : Mai Anh (đàn tranh), Mai Sao (diễn viên) đều đang công tác tại Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế. Từ năm 1980, nghệ sĩ Đình Hạp đã được Trường Nghiệp vụ Văn hóa tỉnh Thừa Thiên Huế mời giảng dạy âm nhạc cho nhiều thế hệ trẻ. Đã có nhiều học trò của Đình Hạp thành đạt sau khi ra trường, trong đó có nhạc công trẻ Minh Tuấn, hiện đang sử dụng đàn nhị ở Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế. Năm 1985, Đình Hạp ra công tác tại Phòng Văn Hóa Thông Tin Thị xã Đông Hà, tại đây dù đang trong giai đoạn gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng Đình Hạp đã góp phần tích cực trong việc xây dựng các phong trào văn hóa văn nghệ tỉnh Quảng Trị.

Sau khi ở Đông Hà một thời gian, Đình Hạp trở lại Huế cùng gia đình tham gia sinh hoạt nghệ thuật cùng CLB ca Huế thuộc Nhà Văn Hóa Huế. Đêm đêm du khách trong và ngoài nước có dịp thưởng thức những giai điệu đẹp từ cây đàn nhị của Đình Hạp cùng hòa âm với giọng ca ngọt ngào của các nghệ sĩ Ca Huế.

Do có quá trình hoạt động cách mạng, hoạt động trên lĩnh vực nghệ thuật, nghệ sĩ Đình Hạp đã được Nhà Nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng III, Huy chương Chiến sĩ văn hóa, Bằng khen Bộ Văn Hóa Thông Tin, UBTQLHCHVHNT Việt Nam tặng Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam... Hiện nay, gia đình nghệ sĩ Đình Hạp là một "mái ấm nghệ thuật" đúng nghĩa vì từng thành viên trong ngôi nhà ấy đã đi đúng định hướng của các nghệ sĩ lão thành thuộc thế hệ trước trong gia tộc. Tất cả một lòng cùng giới nghệ sĩ Huế ra sức bảo tồn, truyền bá đàn ca Huế, Ca kịch Huế, dân ca Bình Trị Thiên…

VÕ QUÊ
voque_hue@yahoo.com.vn