Hiển thị các bài đăng có nhãn giới thiệu sách. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn giới thiệu sách. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013

Giới thiệu sách mới: Tuyển văn thơ - lý luận phê bình Đất Đứng 4 đã phát hành và THƯ CỦA BAN QUẢN TRỊ ĐẤT ĐỨNG





Sau thời gian tuyển chọn và in ấn, Tuyển Văn thơ - Lý luận phê bình Đất Đứng 4 đã phát hành. Tuyển tập là những tác phẩm nổi bật được tuyển chọn từ WEBSITE datdung.com của hơn 50 tác giả trên cả nước và nước ngoài... Sách dày 120 trang, khổ 16x24, giấy phép xuất bản số: 44-2013/CXB/42-02/HNV của NXB Hội Nhà văn - 2013.
  
VĂN
Nguyễn Đức Thiện - Với người phố núi chợ Chu
Nguyễn Thị Mây – Người đàn bà đuổi theo vầng trăng
Nguyễn Khắc Phước – Người đàn bà tuổi dần
Đàm Lan – Xanh thẳm miền cao
Giang Ngọc Phàm – Gam chồng
Anh Đào – Hoàng hôn còn chút mặt trời
Ngọc Thanh – Nụ hôn tóc mây
La Ngạc Thụy – Tây Ninh – Những tháng năm xưa – Kỳ 1

THƠ
Thanh Trắc Nguyễn Văn – Xuân nhớ
TT. Mong Manh – Chút cảm nhận với lục bình
Hồ Thanh Điền - Mùa đông và người đốt rơm
Vũ Thiện Khái – Lảo đảo
Phạm Bá Thái Tâm – Lời cuối – Cảm nhận trước mùa xuân
Nguyễn Lãm Thắng – Biết đâu
Mặc Phương Tử - Mùa lại giao mùa
Lãng Thanh – Phiên khúc tình yêu
Nguyễn Thanh Phương – Khói rơm
Vĩnh Thuyên – Trả lại tên em
Nguyễn Thị Kim Ngân – Chùm thơ
Thái Quốc Mưu – Chùm lục bát
Châu Thạch – Lời khuyên dại khôn
Sử - A – Thì ra …
Sơn Trầm – Hát từ trái tim
Nghiêm Khánh – Tình em gái bán sầu đâu
Hồng Băng – Và sông rẽ nhánh phù sinh
Hà Nhữ Uyên – Mấy đoạn lục bát khi xa người
Ngọc Tình – Lục bát buồn
Lê Hào – Ngày xưa
Lê Văn Thật – Chút đời
Kha Tiệm Ly – Tình buồn
Trần Thế Vinh – Dây mướp xanh bông vàng
Trúc Thanh Tâm – Khi xa Mỹ Tho
Trần Duyên Tưởng – Cửa Lục hoàng hôn
Nguyễn Sơn Thủy – Hoa sữa bồi hồi – Hoa sữa hững hờ
Minh Tâm – Tìm bóng
Ngưng Thu – Tóc ngủ
Trần Thị Quỳnh Hoa – Nói với em
Giang Ngọc Phàm – Không nhận ra nhau
Nguyễn Ngọc Hưng -  Liếm ngang mày tháng chạp
Trần Hồng Giang – Hạt bụi hồng trân
Ngọc Liên – Điệu múa man dại
Đào Thái Sơn - Bên khung cửa gỗ
Huỳnh Cẩm Tú - Trăng mật

LÝ LUẬN – PHÊ BÌNH
Lê Liên – Đọc bài thơ “Dạ thưa mẹ - Chúng con đây" của Vũ Miên Thảo
Trần Hoàng Vy – Tuyển thơ Đất Đứng 3: Sự nỗ lực với văn chương

TÁC GIẢ  - TÁC PHẨM
Xuân Thu  - Trần Nhã My – Có một đêm không anh như thế

CUỘC BÌNH CHỌN THƠ HAY TRÊN ĐẤT ĐỨNG
3 bài thơ đạt giải:
1. Người đàn bà mọc nỗi buồn trong mắt – TTAT
2. Đêm không anh – Trần Nhã My
3. Phút bình yên cho cha – Phương uy.

CÁC BÀI THƠ VÀO CHUNG TUYỂN:
1.Trách đêm – Huỳnh Gia
2. Cọng tranh - Huỳnh Trương Phát
3. Khúc lưu ca – Miên Hải
4. Khát –  Nguyễn Thị Kim Ngân
5. Ngây thơ tôi uống mấy ngời ngời em – Ngưng Thu
6. Lời ru của mẹ - Lê Văn Thuận

LỜI BÌNH HAY NHẤT:
Đọc bài thơ “Chợ chiều Tân Phú” của Vũ Thiện Khái – Mộc Lan Hoa.

 TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

La Ngạc Thụy – Vĩnh Thuyên - Trần Hoàng Vy – Vũ Miên Thảo – Nguyễn Thanh Phương – Nguyễn Chí Sơn.



THƯ CỦA BAN QUẢN TRỊ ĐẤT ĐỨNG

Bạn viết và bạn đọc thân thiết của Đất Đứng!

Hơn 4 năm qua, Đất Đứng được các bạn nhiệt tình cộng tác và theo dõi từng bước đi khởi sắc của trang văn học nghệ thuật của một tỉnh đã vươn lên tầm cả nước và vang ra cả nước ngoài. Hiện tại các bạn đang cầm trên tay “Tuyển văn thơ – Lý luận phê bình” Đất Đứng 4, đây chính là những bông hoa tươi thắm nhất được tuyển chọn trong vườn hoa datdung.com, một bước ngoặc mới khẳng định vị trí của Đất Đứng trong lòng bạn đọc.

Ban Quản trị Đất Đứng chủ trương xây dựng “Tuyển tập” với ước mong nâng tầm sáng tạo và trình độ thưởng thức tác phẩm của các bạn, tạo thêm “vùng Đất để các bạn Đứng chân”, hội tụ, trao đổi và kết nối văn chương trên mọi miền đất nước trong giai đoạn văn chương hiện nay.

Do vậy, tác phẩm được đưa vào tuyển tập là tuyển chọn những tác phẩm nổi bật nhất trên trang www.datdung.com, như để lưu giữ giúp cho các bạn các tác phẩm được sàng lọc qua cảm nhận và đánh giá của bạn đọc datdung.com.

Dù gọi là “Tuyển văn thơ – Lý luận phê bình” Đất Đứng 4, nhưng lại là Tuyển tập Văn học đầu tiên, được chính các bạn góp phần hình thành. Hãy gởi cho datdung.com những tác phẩm mới có sức sáng tạo thử nghiệm mới nhưng vẫn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam, để được sàng lọc, tuyển chọn và khẳng định.

Tác phẩm cộng tác với “Tuyển văn thơ – Lý luận phê bình Đất Đứng” các bạn vẫn gởi về người phụ trách theo các chuyên mục, chuyên trang www.datdung.com như từ trước đến nay.

Đất Đứng không phân biệt tác giả thành danh hay mới bước vào làng văn chương mà tuyển chọn những tác phẩm hay nhất đã được bạn đọc chấp nhận trên “datdung.com – Nơi trao đổi và ươm mầm văn học”.

Tất cả đều mong đợi vào sự ủng hộ và cộng tác của các bạn.

Trân trọng,

Đất Đứng

(Theo LNT)

Thứ Ba, 9 tháng 4, 2013

KHOẢNG LẶNG - Tập thơ đầu tay của Hoàng Lập



Nhà thơ Hoàng Lập

Nhà thơ Hoàng Lập từ Uông Bí vừa gởi tặng VNQT tập thơ KHOẢNG LẶNG, NXB Văn Học, 2012, gồm 70 bài thơ viết từ thời sinh viên cho đến lúc về hưu. VNQT xin trân trọng giới thiệu.

Trong LỜI TỰA, nhà văn Phạm Ngọc Chiếu đã viết về Hoàng lập như sau: “… quả thật có những điều đáng nói về thơ Hoàng Lập, cho dù ông chỉ nhận mình là một nhà giáo đúng nghĩa và là người đến với thơ muộn mằn. Bằng chứng là, từ sau ngày cầm tấm bằng tốt nghiệp khoa văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1968 cho đến ngày cẩm sổ nghỉ hưu, ông đã trọn đời gắn bó với nghiệp trồng người (Kể cả 10 năm đội mũ đeo sao mặc áo lính, ông vẫn là thầy giáo). Trong khi với thơ, dù đã làm thơ từ thời sinh viên, nhưng phải đến sau ngày về nghỉ hưu, ông mới thực sự dành thời gian, tâm sức nhiều cho thơ, coi thơ như bạn tâm giao, nơi để ông sẻ chia, giải bày tâm sự. Vì thế và nhờ thế mà những ngày tháng 10 năm 2012 này, ông có “Khoảng Lặng” gửi bạn đọc.”

Và trên trang Web Violet của mình, cô giáo Trần Thị Thúy Nga đã dành rất nhiều tình cảm cho thơ Hoàng Lập qua bài viết sau đây:

THƠ TÌNH HOÀNG LẬP BÉN DUYÊN MÌNH NHƯ VẬY ĐÓ
Trần Thị Thúy Nga

Hôm nay mình định viết về một người. Người này đến với mình cũng tình cờ thôi. Cái tình cờ làm cho trái tim đa cảm của mình rung động và mình viết. Mình viết những dòng ngu ngơ về những bài thơ của người được người khen là "Lời bình".
 

Trần Thị Thúy Nga
Thực ra mình chưa bao giờ có ý thức bình nghiêm túc một bài thơ. Mình chỉ để cho cảm xúc của mình thăng hoa cùng những bài thơ của bạn thôi. Vậy mà những lúc tâm hồn mình nông nỗi, mình lại tìm đến những bài thơ ấy và chính những bài thơ ấy, như một người tình si, an ủi trái tim mình. Mình thích hai ngôi nhà của hai người đàn ông đa tình và lãng mạn. Bởi mỗi khi mình tìm đến với họ, mình như thấy họ đang dùng cái si tình ấy an ủi mình. Những chàng trai ấy đang viết cho nàng thơ của họ, vậy mà mình cứ hóa thân vào đối tượng, để rồi thấy vấn vương. (Vấn vương là vấn vương cái anh chàng chủ thể trữ tình thôi à nha!)

Một lần mình buồn lắm! Buồn vì cái gì thì bi chừ quên mất rồi (Nhớ cho mà chết luôn à!) vậy là mình lạc vào một Blog bắt gặp bài thơ này:

LỬA CỦI NGHIẾN.

Lửa bén nhanh bởi củi tạp chẻ mỏng
Em đừng thở than: sao bếp lắm tàn?
Giấu lửa vào trong, nghiến chờ tay chọn
Lửa lụi rồi, bếp vẫn bỏng vã than.

Thơ sâu quá! Ý tứ, lời lẽ như nói hộ lòng mình. Vậy là mình để lại vài dòng tâm sự:

Tự nhiên bắt gặp một bài thơ đầy suy ngẫm. Củi chẻ nhỏ  tạp) thì lửa bén nhanh. Lửa bén nhanh thì bếp mau tàn. Cái chân lí giản đơn chỉ những người dùng bếp củi mới biết được ấy lại là chân lí của cuộc đời. Chân lí của tình người. Cái gì dễ dãi quá cũng không bền lâu được. Cũng như tình yêu vậy. "Em đừng thở than: sao bếp  lắm tàn?/ Dấu lửa vào trong, nghiến chờ tay chọn". Minh không hiểu nghĩa của từ nghiến này lắm. Không hiểu nghiến là sự nén lòng hay còn còn có nghĩa nào khác nữa. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa đen thì sự chờ đợi để nhen những thanh củi lớn, để ấm mãi khi lửa đã  tắt mà bếp tro vẫn còn than hồng thì nghiến ở đây là nỗi chờ đợi, sự nén lòng. Nén lòng lại em ạ! Để tìm cho mình một bếp ấm lòng. Đừng vội tìm hơi ấm lửa rơm. Như một lời tâm sự, một kinh nghiệm sống của những người từng trải. Bài thơ đã cho ta một bài học về cách nhìn người, cách nhìn cuộc đời. Đáng trân trọng biết bao.

Vậy là  mình nhận được  tin nhắn để lại của tác giả:

Cảm ơn bạn đã cho từ "nghiến" một nghĩa bóng thật hay. (Nghiến = nén lòng). Anh nén lòng dấu lửa tình yêu vào tim, chờ em nhận ra sức nóng trong anh để chọn anh, như chọn củi cây nghiến (1 loại thiết mộc) để giữ lửa đượm cho bếp của mình.
    Mình bén duyên với thơ Hoàng Lập từ đấy. Mình sục sạo khắp nhà người ta để tìm "trầm" và lại bắt gặp một bài thơ nữa. Mình nói bắt gặp là vì trong muôn vàn bài thơ của người mình chỉ chọn một bài  đăng trong Website vì lúc ấy vào mùa hè:

BẮT ĐƯỢC MÙA HÈ:

Sân trường nhặt một tiếng ve
Thế là bắt được mùa hè ai rơi ?
Phượng sao cháy thế phượng ơi
Đốt trời xanh của  lòng  tôi  bây  giờ
Áo dài nghiêng dáng thẫn thờ
Màu  trinh nguyên ấy có chờ đợi  tôi ?
Tiếng ve đành  thả lên trời
Giữ lại đốm phượng bồi hồi trong tay.

                                      Vào hè 2012

Vậy là ngứa ngáy chân tay mình gõ tiếp:
Không hiểu sao cứ mỗi lần đọc thơ của người thầy giáo ấy mình lại rất đồng cảm. Đã về hưu lâu thế mà bác vẫn còn viết được những vần thơ thật giàu cảm xúc như vậy về tuổi học trò, về hoa phượng, mình thật phục.

"Sân trường nhặt một tiếng ve
Thế là bắt được mùa hè ai rơi?"

Cũng tiếng ve, cũng màu phượng đỏ, cũng thoáng áo dài nhưng qua cách diễn đạt của bác lại không hề theo một khuôn mẫu nào cả. Ở câu thơ đầu, người đọc bắt gặp cách sử dụng thật tài của tác giả. “Nhặt một tiếng ve". Một tiếng ve chứ có phải một bông hoa phượng đâu mà nhặt được nhỉ? Sự chuyển đổi cảm giác làm cho cái vật tưởng chừng vô hình trở nên hữu hình hơn;  cái âm thanh của mùa hạ tự nhiên trở nên có thể cầm nắm được. Ai hơi đâu đi làm cái việc thẩn thơ ấy? Chỉ có "áo trắng" thôi. Nhặt một tiếng ve là "bắt được mùa hè đánh rơi" Mùa hè đánh rơi "tiếng ve". Hay thật.

Lại bắt gặp hình ảnh "phượng cháy" thân quen, nhưng câu bát thì lại rất mới, rất lạ tạo ra sự đối lập giữa hai gam màu tưởng chừng tương phản:

"Đốt trời xanh của lòng tôi bây giờ"

Phượng đốt lòng tôi, hay nói như Xuân Diệu: "Sắc đỏ rủa màu xanh". Câu thơ tả mà lại rất gợi cảm. Tả mà bày tỏ được sự xao xuyến bồi hồi của chủ thể trữ tình khi mùa hè đến.

Vậy mà tình cờ thế nào lại bị phát hiện vì những lời có cánh ấy mình đã giấu kĩ bên Website của mình mà vẫn bị tìm ra. Thế là mối tình giữa thi sĩ và người "hăm dọa"  bắt đầu. (Dùng dùng từ mối tình cho nó kêu tí chứ thực ra là tình  thầy- trò thôi!).
Bẵng đi một thời gian "dan díu" vì thơ, bỗng một hôm lạc vào bắt gặp bài "Giá đừng " của thi sĩ:

Cũng là chỉ gọi: Anh ơi !
Mà sao tôi thấy bồi hồi trong tim
Cũng  là chỉ ánh mắt nhìn
Mà sao tôi thấy muôn nghìn sao rơi
Cũng là chỉ  nụ nhoẻn tươi
Mà sao tôi thấy đất trời đảo nghiêng
Nụ hôn chưa nở  môi mềm
Mà sao tôi  thấy  êm đềm dành tôi.
Tiếng yêu chưa thốt  ra  lời
Mà sao tôi thấy cuộc đời lâng lâng
Những tưởng đã tắt lửa lòng
Mà sao bùng Hỏa Diệm Sơn thế này...
Giá đừng mơ  giữa  ban  ngày
Giá đừng tự chuốc mình say...giá đừng !

Vậy là không hiểu sao mình làm được bài thơ. Làm bài thơ này không phải mình nhớ nhà thơ của mình đâu nha! Mình đang nhớ người yêu của mình đấy, thế nhưng chính thơ của người  đã tạo cảm xúc cho mình viết:

Đừng nói với em hai tiếng giá như!
Chếnh choáng men say
Chếnh choáng men tình
Vàng rực đồi Langbiang, dã quỳ có làm anh chếnh choáng?
Đêm định mệnh, anh say
Vờ ngủ quên trên mịn trần đôi tay

Đừng bao giờ nói với em rằng:
Giá như mình còn gặp lại
Bởi sau cơn say, là những ngày rất tỉnh
Anh sẽ chẳng bao giờ mê mãi mãi vì say

Đừng nói với em hai tiếng : giá như
Bởi ta biết những gì mình nhận được
Cho là cho, hạnh phúc đâu có mất  ?
Cái nhận về, anh có giống em không?

Em vẫn thích anh say, say tí cay nồng
Thích chếnh choáng chút hương men tình ái
Say cứ say  nhưng ngày mai tỉnh lại
Anh lại là anh và  đừng bao giờ nói: giá như ...

 Với lời đề tặng : Tặng bác Hoàng Lập. Chính bác đã gợi tứ cho cháu làm bài thơ này. Vậy là mấy ngày sau, mình đón đọc được bài: Nồng nàn LangBiang:

Đã từng một đêm Lang Biang
Mụ mị rượu với nồng nàn Cao nguyên
Ngật ngà nhịp nhún cồng chiêng
Ơ kìa ! Lửa múa mắt nghiêng bập bùng.

Em đừng lắc suối tóc hông
Lỡ một nhánh mát xoà vòng tay  tôi
Miệng thơm, thơm cả lời mời
Chập chờn ngà ngọc khoé môi em cười.

Ơ kìa ! Hình  như  mặt  trời
Dấu bỏng ngưc áo đốt tôi cháy lòng
Cong mềm cần lựa xoay vòng
Đỡ tay khắc khoải níu mong lượt kề.

Ơ kìa ! Đừng bảo tôi mê
Nàng H’Biang rõ vừa về cạnh tôi.

Với lời của người biên tập: Là bài thơ viết lâu rồi nhưng chính cái tên Langbiang của Blog mình gợi bác nhớ lại và đem ra chỉnh sửa. Bài thơ khá nồng nàn. Mình chọc bác một câu: 

Ơ kìa ! Hình như mặt trời
Dấu bỏng ngưc áo đốt tôi cháy lòng
Chết mấy chàng luôn. Lại một người nữa bị đường cong hớp hồn. Cười. 

Mình chọc cái tranh minh họa trong bài viết của bác và cái lời bình của bác cho bài viết " Đùa cùng Bà Chúa thơ Nôm" của mình.
  
Mình nói là mỗi khi buồn mình thường tìm đến với thơ, để cho nhưng chàng trai si tình ấy an ủi mình. Và chính Thơ  Hoàng Lập ( Xin được gọi tên anh như một chàng trai vì sự trẻ trung và sâu sắc, lãng mạn mà chân tình) đã an ủi mình trong những lúc mình thấy "Mất chân trời"

Mất chân trời
Trời tuy cao nhưng vẫn có chân trời
Vẫn có nơi Tiên - Người gặp gỡ
Bụt sẽ lau khô nước mắt đau khổ
Cứ gục vai anh mà thổn thức con tim .

Chẳng cần đâu mò đáy giếng trăng in
Cứ thả gầu vào anh mà múc lên vằng vặc
Bạch Tuyết đợi trăm năm mới thức giấc
Anh xin một ngày làm Hoàng Tử cho em.

Anh luôn tin có chỗ Người gặp Tiên
Nên suốt đời lang thang tìm kiếm
Một ngày nào , ai cùng em âu yếm
Là lúc anh  biết mình  mất chân trời .

             Vậy là mình viết:
Lại một bài thơ chứa đầy tâm trạng. Không hiểu sao tất cả những hình ảnh thơ lại như rất gần gũi với mình. Nơi chân trời. Mình vẫn thường nghĩ đến cái chân trời ấy. Nơi Nha Rúi và Tầm Giang gặp nhau. Nơi Từ Thức gặp Tiên, để rồi vẫn vơ đi tìm mãi. Đọc thơ của Bác Hoàng Lập mình lại bắt gặp một người lớn tuổi, cũng vẫn vơ đi tìm cái chân trời xa lắc ấy

Trời tuy cao nhưng vẫn có chân trời
Vẫn có nơi Tiên-Người gặp gỡ
Bụt sẽ lau khô nước mắt đau khổ
Cứ gục vai anh mà thổn thức con tim

 Liệu có cái nơi Tiên người gặp gỡ ấy chăng? Có một bờ vai để cho ta tựa khi ta cần? Hay chỉ là " Mò trăng đáy giếng". Lòng giếng sâu hay lòng giếng cạn? Ta đã nói với người " Em tưởng giếng nước sâu, em nối sợi gàu dài...". Sao bài thơ giống như viết cho mình thế . Tất cả những gì Bác nghĩ sao thấy gần gũi với mình quá. Mình cũng nghĩ đến những điều đấy nhưng không thể viết ra được như Bác thôi.

Thơ đến với mình như vậy đó. Mình yêu những chàng trai si tình trong những bài thơ ấy. Mong là ngoài đời thực các chàng trai ấy vẫn lãng mạn, tình si để  cho một nửa của mình không bao giờ phải buồn khổ. (Ý quên... ngoài đời thực thì thầy giáo hưu ấy vẫn rất mực tình chung chứ!)

Trần Thị Thúy Nga
http://thuyngadx.violet.vn/

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Hoàng Đình Chiến - TÔI ĐI GOM GIÓ


Nhà báo nhà thơ HOÀNG ĐÌNH CHIẾN vừa gởi tặng VNQT tập thơ LỤC BÁT CÁNH DIỀU, tập thơ thứ tư của anh,  gồm 70 bài thơ mà anh “gom” lại từ các báo mạng, tập san và bạn bè. VNQT xin trân trọng giới thiệu Lục Bát Cánh Diều và bài tựa của tác giả.

Hình bìa 1 tập thơ LỤC BÁT CÁNH DIỀU, tác gỉả Hoàng Đình Chiến,
NXB Thông Tin, 2012


TÔI ĐI GOM GIÓ

Đi giữa mênh mông đất trời, mênh mông cung bậc lòng người, biết bao là gió. Gió từ đồng cạn đồng sâu, gió từ biển cả, gió từ đại ngàn, gió mồ côi hay gió giông bão. Gió sau cơn thịnh nộ đất trời hay gió phía sau mảnh đời mỗi người … Tôi cất công gom hết lại. Đời một con người khi đã sang bên kia dốc, thường hối hả muốn làm một cái gì đó trong cuộc viễn du cuối cùng.

Tôi có anh bạn nhà báo. Sau 35 năm với ngòi viết, những dòng tin, những bài phóng sự, nghị luận … rải rác trên các báo nhiều vô kể. Anh bỏ công hàng năm trời, mày mò sưu tìm để ra cuốn cách dày cộp in lại tất cả bài viết của mình. Không gì ngoài ý nghĩ để lại cho mai sau những dấu ấn của mình. Có người chê anh cuối đời lẩm cẩm. Có người khen anh hay hay …

Tôi làm thơ không nhiều nhưng rải rác từ thời còn là học sinh trung học. Thời sinh viên đã có thơ đăng báo. Tôi làm thơ giữa giảng đường, trên đỉnh Trường Sơn, vùng cao Lũng Cú, đất mũi Cà Mau hay Phú Quốc đảo ngọc … Đời làm báo cho tôi đi nhiều. Những bài thơ cứ dày lên theo năm tháng. Nhưng, tôi có cái tật không để ý lưu giữ. Ngoài những tập đã in, giờ tôi tiếc nuối muốn gom chúng lại. Vô cùng khó khăn như đi gom gió vậy. Thật may mắn là ý tưởng đã một phần thành sự thật.

Một người bạn định cư bên Úc, vào một ngày cuối tuần bỗng gọi về, báo tin đọc được trên mạng những bài thơ của tôi. Nhờ vậy đã có số điện thoại mà liên lạc sau bao năm vắng bặt tin nhau. Trong những bài thơ bạn tôi điểm lại, có bài tôi làm cách nay ngót 40 năm mà tôi đọc lại cứ ngỡ không phải của mình. Một trang điện tử của một huyện vùng biên Thất Sơn (An Giang) hẻo lánh giúp tôi tìm được bài thơ tưởng đã rơi vào quên lãng. Và nhất là trên Tập san Văn hóa Nghệ thuật của huyện miền núi Quỳnh Hợp (Nghệ An), với một quý/số, giúp tôi tìm lại đứa con tinh thần thất lạc hàng chục năm.

Và như thế, những vần thơ như cánh diều cứ bay lên, bay lên trong một chiều triền đê no gió.

Những sợi gió mong manh có mang đến cho bạn đọc phút giây tĩnh lặng và suy tưởng về cuộc đời.

HOÀNG ĐÌNH CHIẾN
hoangdinhchien48@yahoo.com

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

VĂN CHƯƠNG THÔI "GÂY CHIẾN" ĐỂ "ĐỐI THOẠI" - Mi Ly giới thiệu "ĐỐI THỌAI VĂN CHƯƠNG" của Trần Nhuận Minh – Nguyễn Đức Tùng

Bìa cuốn Đối thoại văn chương do NXB Tri thức ấn hành.


Văn chương thôi “gây chiến” để "đối thoại" 

“Lâu nay, những gì chúng ta viết trên blog và báo chí hầu hết là hạ bệ nhau chứ chưa phải đối thoại văn chương đúng nghĩa” – nhà thơ Nguyễn Quang Thiều phát biểu trong buổi ra mắt cuốn Đối thoại văn chương của hai tác giả Trần Nhuận Minh – Nguyễn Đức Tùng tại Hà Nội.

Cả hai người: Trần Nhuận Minh, một nhà thơ Việt Nam nổi danh (cũng là anh trai nhà thơ Trần Đăng Khoa) và Nguyễn Đức Tùng, một bác sĩ gốc Việt ở Canada, đều có chung những trăn trở về văn chương. Cuốn sách Đối thoại văn chương là một cuộc đối thoại đúng nghĩa, trải dài suốt 9 tháng, từ tháng 1 đến tháng 9/2011. Nguyễn Đức Tùng hỏi và Trần Nhuận Minh trả lời, chủ đề: văn chương Việt Nam.

Viết một cuốn để ghi lại những gì mình nghĩ, 2 tác giả đã chọn làm chung công việc này và chọn một hình thức không phải là độc nhất vô nhị nhưng vẫn mới hơn so với nhiều cuốn sách bình văn thơ chủ yếu độc thoại trong nước lâu nay.

 
Hai tác giả Trần Nhuận Minh (trái) và Nguyễn Đức Tùng.

Tiếp bước Chân dung và đối thoại của "cậu em" Trần Đăng Khoa

Cách đây 15 năm, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng từng viết cuốn phê bình Chân dung và đối thoại (1998). Trong đó, các vấn đề văn chương được phát biểu qua các cuộc đối thoại thật và tưởng tượng, cũng mang lại không khí mới mẻ cho văn chương, thậm chí trở thành một hiện tượng vì những nhận định khác người gây bất ngờ của tác giả. Dư luận sôi nổi đến mức có cả sách phê bình cuốn phê bình này, chẳng hạn cuốn Cảm nhận & phê bình văn học: bàn về “Chân dung và đối thoại” của nhà giáo Lê Xuân Lít.

Trở lại với cuốn Đối thoại chân dung vừa ra mắt. Nguyễn Đức Tùng cũng không xa lạ với đối thoại, cuốn Thơ đến từ đâu (2009) của tác giả này cũng gồm các bài viết kiểu trò chuyện, phỏng vấn. Còn với Trần Nhuận Minh thì đâylà cuốn đối thoại đầu tiên của ông và trong sách, ông là nhân vật trung tâm, người phát ngôn chính.

Nhà thơ Vũ Quần Phương nói: “Nói về kinh nghiệm làm thơ thì Trần Nhuận Minh chỉ thua mỗi Trần Đăng Khoa. Trần Đăng Khoa giỏi tự giễu nhưng thỉnh thoảng hơi đi quá trớn, còn cách nói Trần Nhuận Minh thì chừng mực, khiến người ta mỉm cười”.

  
Trao đổi văn chương không phải để “hạ độc” nhau

9 tháng trao đổi cả trực tiếp lẫn qua thư từ và 265 cặp câu hỏi – trả lời đã được 2 tác giả chọn lọc đưa vào cuốn sách. Tuy nhiên, 9 mục chính trong sách không phân chia theo vấn đề hay nhân vật mà theo trình tự thời gian, chẳng hạn chương 1 – Đối thoại tháng Giêng, chương 2 – Đối thoại tháng Hai… Điều này phần nào thử thách khả năng tập trung của người đọc.

Thêm vào đó, sách dày 836 trang. Mà, theo lời nhà thơ Trần Nhuận Minh trong một bài phỏng vấn, dự định ban đầu của 2 tác giả chỉ là 200 trang.

Từng đó thông tin để thấy Đối thoại chân dung không phải một cuốn sách có thể đọc nhanh, cũng không thể đọc một lần hết ngay, nhưng những ai đã đọc thì đều đọc rất kỹ. Trong buổi ra mắt, các nhà thơ Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Nguyễn Quang Thiều, Châu Hồng Thủy… đều có những nhận xét tỉ mỉ.

Bàn về 2 chữ “đối thoại”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Namliên hệ với thực tiễn văn học: “Trong đời sống văn học Việt Nam hiện nay, chưa bao giờ người ta bàn về thơ khủng khiếp như bây giờ, nhưng không phải là đối thoại. Tôi có cảm giác những gì được bàn trên blog, facebook hay thậm chí báo chí chính thống là để “hạ độc” nhau, tạo nên những cuộc chiến tranh lạnh, chứ không tìm cách để đối thoại với nhau”.

“Nếu so sánh thì cuộc đối thoại của Trần Nhuận Minh và Nguyễn Đức Tùng mang bản chất khác” -Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhận định.

Khác với Trần Đăng Khoa vẫn thường xuyên xuất hiện, viết báo, viết blog để bày tỏ quan điểm, người anh Trần Nhuận Minh lặng lẽ hơn. Ông không thường nói về thơ, cả thơ người lẫn thơ mình. Lần này ra sách, ông nói: “Người làm thơ không cần phải ngồi đây để nói chuyện, cũng không cần phải diễn giải. Tất cả những gì tạo nên giá trị của nhà thơ đều nằm trong thơ”.

Theo đó, để hiểu những suy nghĩ của ông, nên đọc cuốn sách mà qua đó ông thể hiện nhiều trăn trở, chính là Đối thoại văn chương. Trong cuốn sách, nhà thơ cũng điểm lại những dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp của mình, chẳng hạn khi ông từ bỏ toàn bộ sáng tác trong 25 năm bao cấp (1960 –1985), gồm 166 bài thơ và 2 trường ca, để “tự khai sinh lần thứ hai cùng với công cuộc đổi mới đất nước”.


Hai nửa của một cuộc đối thoại

Nhà thơ Trần Nhuận Minh sinh năm 1944 ở Hải Dương, là anh trai nhà thơ Trần Đăng Khoa. Hiện ông sống và viết ở Hạ Long trong khi người em trai ở Hà Nội. Trần Nhuận Minh đã xuất bản 17 tập thơ, 3 tập văn xuôi và mới nhất là cuốn Đối thoại văn chương. Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt 2 năm 2007.

Tác giả Nguyễn Đức Tùng sinh tại Quảng Trị, theo học ngành y. Hiện ông sống ở Canada, làm việc trong ngành cấp cứu, là bác sĩ chấm thi của hội đồng Y khoa Canada, thường trú Đại học British Columbia (UBC). Ngoài ra ông sáng tác, dịch thuật và viết phê bình. Tác phẩm khác: Thơ đến từ đâu? (2009) viết về thơ Việt trong và ngoài nước.

Mi Ly


Bài đã đăng trên Tạp chí Thể Thao &Văn Hóa (thethaovanhoa.vn)

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013

NỐI TIẾP MẠCH TRĂNG NGÂN - Phan Kỷ Sửu đọc thơ Nguyệt Quế

Nhà thơ NGUYỆT QUẾ

     Cách  đây hai tuần, Nguyệt Quế đã ghé lại nhà tôi tại Thị xã Tây Ninh và trao tặng tập thơ thứ hai của cô: TÓC RAU HẸ. Thật mừng cho Quế bởi vì tập thơ này cũng chính là một sự khẳng định rõ ràng là cô đã vượt qua những hạn chế của tình trạng bệnh tật để tiếp tục bước trên con đường của mình một cách rất vững vàng.

     Vâng! Cái mạch cảm xúc từ một cõi trăng ngân hình thành năm năm về trước đã được nối tiếp với hình ảnh thân thương của một lọai rau đặc sản của vùng quê Gò Chùa - Xóm Mía của cô: Rau hẹ.      

      Với Nguyệt Quế, cây hẹ chính là hình ảnh của quê hương, tóc lá hẹ là những dòng tóc dài. Mềm mại chảy xuống đôi bờ vai của những thiếu nữ quê nhà trong đó tất nhiên là có mái tóc  của bà, của mẹ cô và của chính cô thời xuân sắc.Với hình ảnh cây hẹ đơn sơ, mộc mạc trên những, thửa đất rẩy êm đềm dước bóng mát ngôi chùa Cao Sơn cổ kính, Nguyệt Quế còn ấp ủ trong tận nơi sâu lắng nhất của lòng mình cái tình yêu rất đổi thiêng liêng đối với mảnh đất chôn nhau, cắt rốn của mình.

       Là một người làm thơ, một người bạn thơ, tôi muốn trình bày sau đây một vài cảm nhận của mình khi đọc “Tóc rau hẹ” của Nguyệt Quế. Chỉ một vài cảm nhận thật khái quát mà thôi!

    Nguyệt Quế là một trong những cây bút nữ hiếm hoi ở Tây Ninh được người yêu thơ chú ý. Là một giáo viên đã về hưu tức là Quế không còn trẻ nữa. Thế nhưng thơ của cô không hề hằn lên những nếp nhăn của tuổi đời chồng chất mà trái lại nó rất trẻ, trẻ từ trong ý nghĩ, đến những từ ngữ, hình thức mà cô sử dụng. Bản chất của cô từ khi chấp chửng bước vào thơ cho đến nay là chân tình, giản dị và dạt dào những cảm xúc rất nữ tính. Nó tóat lên vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ đất phương Nam. Cô không hề tạo nên một sự lập dị nào cũng không hề tạo cho mình một thế giới nào có vẻ bí ẩn, lạ lùng chỉ có mỗi riêng cô là có quyền đặc chân đến. Đó là cái điều mà một số người làm thơ hiện nay đang làm để rồi vô tình biến mớ ngôn ngữ của họ trở thành một thứ vật chất không hồn. Người ta đọc thơ mình mà không biết mình muốn nói đến điều gì, thế thì mình làm thơ để làm gì? Điều đó theo tôi không phải là một sự khám phá, một sự tìm tòi mới lạ nào cả! Khám phá cái gì? Mới lạ chỗ nào mà sau khi đọc những dòng chữ gọi là thơ ấy xong, người đọc đành thất vọng, lắc đầu và than thờ: Mình đọc thơ mà chẳng thấy thơ ở đâu cả!

      “Tóc lá hẹ” của Nguyệt Quế hôm nay là  một chuổi nối tiếp những âm thanh của vầng trăng ngày trước. Những âm thanh không hề co cụm lại trong một phạm vi cố định nào mà nó dạt dào hơn, thanh thóat hơn, cô đọng hơn, sâu lắng hơn và ngân xa hơn.

   Bài thơ  đầu tiên  của Nguyệt Quế mà tôi đã  đọc đi, đọc lại nhiều lần: Lá, chỉ có một từ Lá thôi vậy mà sức gợi cảm lại mang cấp số nhân: Từ những chiếc lá khô âm thầm rơi trong đêm, rơi vào nỗi nhớ. Cái âm thanh rất thầm đó ru cô vào những kỷ niệm đã xa.

         “Lá ngủ trên tay
           Đêm dài mộng mị
           Người chưa trở lại
           Lá phai xuân thì..”

    Êm êm như thế, du dương như thế mà lại dễ nhập vào cái cảm giác man mác, bâng khuâng khi mộng đã trôi qua.

                        Ảo ảnh tan đi
                       Lá như bở ngỡ…”       
       
    Bài thơ mang cái tựa“Không đề” nhưng vẫn ấp ủ những gì mà tác giả muốn nói đến đó chính là cái hình bóng quê nhà miên man trong ký ức. Bài thơ mang hơi hướng Đường luật nhưng hòan tòan không cũ:

                   “Man mác trầu xanh buồn lá úa
      Ngậm ngùi cao rụng nhớ vườn xưa
      Rưng rưng tiếng dế bờ ao cũ
      Gối đá mơ màng bóng nguyệt xưa”

       Điều đáng trân trọng nhất ở Nguyệt Quế là một điều hòan tòan khác hẳn với khuynh hướng của giới trẻ hiện nay: Giới trẻ họ chỉ loay quay với mớ từ ngữ đã quá sáo mòn, nhàm chán như hẹn hò, gian dối, dỗi hờn, yêu đương, nhung nhớ … Cũng như các giai điệu trẻ không hề thóat khỏi hai đại từ anh và em. Còn Nguyệt Quế thì khác. Cô đi sâu vào những điều tưởng chừng như rất gần gũi, bình thường trong cuộc sống nhưng lại rất cao cả, thiêng liêng. Đó là hình ảnh của những buổi chiều quê Xóm Mía có tiếng bìm bịp kêu khắc khỏai chạnh lòng … Đó là cái giàn bông giấy buồn rụng tím chiều mưa trên con đường cô về thăm thầy cũ. Đó là những làn nắng Gò Dầu long lanh trải mật gợi nhớ mãi.

                   “ Những ngày đi học
                      Đường hoa dầu áo lụa trắng bay…”
                                                      (Thương lắm Gò Dầu)

Đó là “Cánh đồng bưng trĩu lòng bông lúa gọi…” dội vào ký ức cái thuở lưng trâu, mùa nước nổi, cứ làm cô xót xa tưởng nhớ đến nghĩa mẹ, công cha những ngày  dưỡng nuôi gian khó.

                    “Con cua đồng kho chua lá bứa
                      Bàn tay cha mưa nắng bùn lầy
                      Rau hẹ ghém rối bời tóc mẹ
                      Con no lòng cơm độn sắn khoai..”
                                                    (Hương lúa)

Nỗi nhớ mẹ càng xé lòng hơn đối với Nguyệt Quế khi bóng mẹ hiền đã khuất nhòa  phía bên kia cuộc đời:
                  
                  “Nghe thèm một chút heo may
                    Nhớ mùa rau hẹ dáng gầy mẹ yêu…”
                                                   (Tóc rau hẹ)
                   
   Tưởng nhớ  đến đấng sinh thành, không ai có thể thề bỏ quên hình ảnh  những người muôn năm cũ đã tạo nên hình hài của họ. Đó là cái đạo làm người, cái truyền thống “uống nước nhớ nguồn” từ ngàn đời của dân tộc Việt nam. Vậy mà những hình ảnh thật thân thương, khả kính đó lại xa dần trong thơ của những người trẻ tuổi bây giờ! Đó là ông bà nội, ngọai. Bài thơ “Ngọai ơi” thật giản dị. Cái giản dị làm cho người đọc muốn rưng rưng :

     Con đã về đây với Bến Cầu
     Giữa mùa lúa trổ trắng hoa cau
    Vười xưa chim hót trên cành bưởi
    Bóng ngoại tìm đâu? Lạnh khóm trầu.

  Thơ Nguyệt Quế còn trải dài trên nhiều chủ đề phong phú khác. Nói chung, những cảm xúc của cô là những cảm xúc thật, do đó, nó dễ chạm vào tâm tư người khác. Cuộc sống bây giờ rất cần có những vần thơ như thế! Xin chúc mừng thành công mới của Nguyệt Quế, và riêng tôi cũng có một vần thơ ngắn tặng người bạn thơ Nguyệt Quế với tựa đề MỘT VÒNG NGUYỆT QUẾ TẶNG EM.

        Với những tâm tư mộc mạc, quê mùa
        Tôi kết lại tặng em vòng Nguyệt Quế
        Tặng những vần thơ xanh lá hẹ Gò Chùa
        Và trong vắt tiếng chuông Cao Sơn rơi lặng lẽ

        Những lá hẹ  mượt mà như tóc bà,tóc mẹ
        Và tóc em thời thiếu nữ xa rồi
        Thắm vào tôi như hương đồng Xóm Mía
        Như  một chất men rất nồng ấm tình đời

        Ơi từng câu thơ yên ả đất trời
        Lắng hơi thở  của em và cuộc sống
        Và tôi hiểu nó không hề lẽ bóng
        Và bơ vơ  như như chiếc lá khô rơi…!


                                                PHAN KỶ SỬU

Thứ Hai, 4 tháng 3, 2013

Nguyễn Miên - Nét đẹp tiềm ẩn trong NHỮNG TÂM HỒN ĐỒNG ĐIỆU - Tập truyện ngắn của Lưu Quang Minh



Khi nhịp sống hối hả cuốn con người lao vào cuộc mưu sinh, đôi lúc ta lướt qua nhau bằng một sự hờ hững đáng kinh ngạc. Nhiều khi ta sống quá vội vã để có thể nhận ra cuộc sống này vẫn còn những điều thật đẹp đẽ, những mảnh đời đáng được nâng niu và tình người vẫn tràn đầy trong khắp những ngõ hẻm của thành phố nhộn nhịp này.

Sống chậm lại để thấy lòng mình trống trải ra sao, thiếu vắng điều gì. Hãy dành những phút giây thư giãn quý giá để lắng nghe tâm hồn mình đang tìm kiếm điều gì trong cuộc đời hữu hạn này. Những lúc lòng chông chênh, sách trở thành người bạn thân cận và cần thiết nhất. Trong hàng ngàn cái tựa giật gân có, trầm lắng có, khiêu khích có, tẻ nhạt có, tôi tìm thấy nó. Một quyển sách với cái tên mà tôi ấn tượng mạnh mẽ: Những Tâm Hồn Đồng Điệu. Đúng rồi, trong cuộc sống hối hả thì cần lắm những người đồng cảm, những tri âm tri kỷ, để con người ta không cảm thấy lạc lõng giữa bộn bề mà cuộc đời mang lại.

Lần giở những trang sách và bắt đầu kiếm tìm một chút gì đó đồng điệu.

Có đọc truyện của Lưu Quang Minh mới thấy bạn như đang bước vào một cuộc triển lãm hình ảnh của cuộc sống. Lưu Quang Minh đã khéo léo chọn lựa và đóng khung những khoảnh khắc ấy bằng ngôn từ để đưa vào trang sách của anh. Truyện của Minh không thiên về tả cảnh nhưng điều kỳ lạ là người đọc vẫn luôn có thể hình dung ra khung cảnh, nhân vật một cách hết sức đầy đủ và sống động. Người đọc có thể mường tượng ra bức tranh người đàn ông trung niên ngồi trong quán cơm mà ánh mắt thấm đẫm niềm thương nhớ về những bữa cơm nhà (Cơm Nhà). Hay khung cảnh bầu trời trong xanh với những cánh diều no gió kéo hồn người đọc ngược về những năm tháng tuổi thơ (Đồ Chơi). Kia là bức tranh hai người thanh niên đứng cạnh nhau trú mưa đêm mà nét mặt vẫn hằn lên những nỗi ưu tư vì cuộc sống mưu sinh vất vả (Ca Sĩ Kẹo Kéo). Bức tranh về những con người cô đơn đến cùng cực sẽ khiến người đọc lặng lòng đi và tự hỏi phải chăng một lần mình cũng đã từng bị cô đơn vây phủ như vậy (Ngài Ipod). Còn rất nhiều những bức tranh về những số phận, những mảnh đời khác mà ngòi bút của Minh mang lại. Càng đi sâu, người đọc sẽ càng thấy thích thú khi khám phá ra một thế giới đầy triết lý và xúc động với những ẩn ý sâu xa đằng sau mỗi câu chuyện.

Cái giọng văn chân chất, nửa như  thật nửa như đùa không hề bóng bẩy mượt mà nhưng lại cuốn hút lạ. Đôi lúc nhẹ  nhàng như kể lể, lúc lại thầm thì giọng trầm tư, khi thì hài hước xen chút mai mỉa. Chính cái giọng ấy đã tạo nên sự khác biệt, vừa gần gũi lại vừa xa cách, nó dẫn dắt người đọc đi từ truyện này sang truyện khác mà không mang lại cái cảm giác nhàm chán. Cái tài của người viết được thể hiện qua những con chữ súc tích, ngắn gọn, nói ít nhưng gợi nhiều. Điều đó là điểm nhấn tạo nên một nét rất riêng mà chỉ có thể tìm thấy trong văn của Lưu Quang Minh.

Một tác phẩm muốn đi vào lòng người thì trước hết phải gợi lên được cái tình, phải cho thấy được sự đồng cảm, tính nhân văn. Để chinh phục trái tim người đọc thì phải mang lại cho họ bữa ăn tinh thần với những món mà họ cần. Trong thời đại công nghệ như hiện nay thì con người càng dễ bị rơi vào cô đơn, tình người càng trở nên xa cách. Truyện của Lưu Quang Minh đã mang đến cho người đọc một bữa ăn tinh thần với đầy đủ hương vị của cuộc sống. Tất cả những truyện ngắn của Minh đều mang những thông điệp ý nghĩa. Nó giúp ta nhận ra đâu đó vẫn còn tình người, vẫn còn đó những con người luôn muốn vượt lên trên số phận để vươn tới ước mơ. Dù bạn là ai trong cuộc đời này, tôi chắc rằng bạn sẽ tìm thấy tiếng nói đồng điệu từ trong tập truyện ngắn này của Lưu Quang Minh.

Nguyễn Miên

Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

Hương Xuân - CẢM XÚC từ tập thơ “NGUỒN CỘI” của tác giả Phạm Bá Nhơn




        Viết về nguồn cội là viết về nơi chôn nhau cắt rốn, là quê cha đất tổ, nơi mà ta sinh ra và lớn lên với quãng đời thơ ấu ấm áp biết bao là kỷ niệm. Cội là gốc rễ, nguồn là điểm xuất phát, nơi khởi đầu cho một cuộc hành trình. Gốc rễ của cuộc đời có thể là một lối mòn xưa, dòng sông bến nước, cây đa đình làng hay cánh đồng với những mái tranh nghèo thuở còn vương khói lam chiều. Một ngày ta đi biền biệt với nỗi buồn ly xứ không ai có thể mang theo cội rễ vào đời.

Trong cuộc hành trình mưu sinh, nguồn cội luôn như ngọn lửa cứ âm ĩ cháy trong hồn mỗi người. Canh cánh với bao nỗi niềm, hoài bão với bao điều mơ ước, người ra đi từ đó, hành trang chỉ là lời ru của mẹ hơi thở của hồn quê ngai ngái mùi rơm rạ. Bước chân hồ hải đâu cũng là quê hương, cũng vẫn bình minh với mặt trời rực sáng, cũng vẫn hoàng hôn với đàn chim ngang trời bay về rừng cũ. Chợt có một ngày qua bến đò ngang đất khách, nhìn dòng sông quê người, nghe tiếng mái chèo khua nước, “tác giả” chạnh lòng thương nhớ quê xưa.

Đó chính là nguồn cội mà mỗi người đều có những kỷ niệm riêng, những cảm xúc và nỗi niềm rất riêng để thương để nhớ. Có thể mỗi người đều có mỗi hướng đời đi khác biệt nhưng trong sâu thẩm tiềm thức ai cũng mong có một ngày áo gấm về làng. Nguồn cội vừa là hữu hình, vừa mang tính trừu tượng. Theo thời gian, trên mỗi bước chân xa trừu tượng dần hình thành và cũng dần hiện hữu trong tâm của mỗi người con xa xứ.


Nhà thơ Phạm Bá Nhơn
Nhà thơ Phạm Bá Nhơn viết về nguồn cội chưa hẳn đơn thuần muốn khơi dậy một tiềm thức, mà chính trong tâm những nỗi niềm đã thúc đẩy “tác giả” thổ lộ những cảm xúc hơn là giải bày những nỗi lòng. Trong bài thơ “Hẹn Về Quảng Trị” có bốn câu:

“Quãng Trị ơi quê hương và nguồn cội
Mới vừa xa mà lòng nhớ khôn vơi
Làm sao quên những chiều nơi xóm nhỏ
Ngày ra đi xao xuyến mãi trong đời”.

Nguồn cội trong hồn nhà thơ sao mà da diết đến thế! “Ngày ra đi xao xuyến mãi trong đời”. Mỗi một bước chân đi ngày ấy tôi tin chắc rằng thế nào anh cũng “Một bước đường một đau”.

Nguồn cội là đất mẹ, là tổ ấm, là bến nước sân ga. Cánh chim rời tổ, con đò tách bến và con tàu lăn bánh khỏi sân ga, tất cả ra đi rồi cũng sẽ quay về. Tổ ấm dù có xơ xác nghèo nàn, bến nước dù có đìu hiu, quạnh quẻ, sân ga dù có điêu tàn vắng vẻ nhưng vẫn luôn bao dung và đón nhận. Chỉ sợ trên bước đường phiêu bồng, bã phù danh làm tâm người thay đổi không còn nhớ đến gốc rễ của đời mình. Đọc những bài thơ trong tập thơ “Nguồn Cội” của nhà thơ Phạm Bá Nhơn, tôi khẳng định một điều: dù anh đang ở chân trời gốc bể nào, nguồn cội luôn ở trong tâm anh. Đó chính là nỗi lòng rất thật qua những câu thơ bởi vì thơ là sự thăng hoa của nội tâm qua cảm xúc. Trong bài thơ “Nguyện Cùng Non Nước” có bốn câu:

“Ta ra đi để có ngày về lại
Với quê hương xa ngái vẫn đang chờ
Thuở cất bước mang theo lời nguyện ước
Câu thề xưa ấp ủ mãi trong mơ”.

Và trong bài “Tôi Về Quê Tôi” cũng có những câu làm xao xuyến người đọc:

“Về cùng bến nước dòng sông
Lũy tre nương cát lúa đồng mênh mông
Ra đi thỏa chí tang bồng
Vẫn không quên được một vùng đất quê”.

Hay:

“Về đây tìm lại dấu chân
Trong tôi còn đó một phần đất quê”.

Có lẽ trong suốt tập thơ “Nguồn Cội” nhà thơ Phạm Bá Nhơn đã thổ lộ cảm xúc của mình qua bài “Người Quảng Trị Xa Quê” và theo tôi nghĩ đây là một trong những bài thơ tiêu biểu hay nhất trong tập thơ “Nguồn Cội” của anh “Người Quảng Trị Xa Quê” phải chăng đó là một thông điệp, một lời nhắn nhủ chân tình đến những người con đất Quảng Trị đỏ lửa năm xưa. Và tôi chợt thương lắm những vần thơ:

“Tha hương ngót mấy đông tàn
Vẫn mang giọng nói nồng nàn ngày xưa
Vẫn còn nhớ nắng thương mưa
Vẫn là dáng mẹ sớm trưa đi về”.

Vẫn mấy câu thơ trên tôi chợt liên tưởng tới Nguồn cội không chỉ là Đất mẹ, quê cha mà Nguồn cội còn là giọng nói quê, là da thịt của mình, như trong hai câu kết:

Ta nghe giữa cõi bao la
Quê xưa là nửa thịt da của mình”.

Một thoáng ngậm ngùi thương nhớ trong anh, thêm một chút suy tư trầm mặc của một chiều mưa bụi bay, của một hoàng hôn hay trong đêm trăng sáng để anh “ngước đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ quê xưa”. Cố hương trong lòng nhà thơ đâu chỉ là mịt mù lớp bụi hương quan mà những địa danh Quảng Trị cũng làm cho hồn anh bừng dậy những nỗi niềm. Nào là bãi biển “Hải Khê”, đêm trăng “Cửa Việt”, hạt tiêu cay đất “Vĩnh Linh”, bát chè “Cam Lộ”. Nào sắc tư “Ô Lâu”, Lương Điền, Mĩ Chánh với gạo thơm “Triệu Độ”, trà lành “Gió An”. Tất cả… tất cả… đã làm nên, trở thành “Nguồn Cội” trong tim người viễn xứ.

Sự đồng cảm luôn làm con người gần gũi nhau hơn. Đồng cảm trong sự mất mát chia li, đồng cảm trong niềm vui tương ngộ và trong nỗi buồn xa xứ. Để được chia sẻ, mỗi người đều có cách thể hiện để tìm sự đồng cảm và nhà thơ Phạm Bá Nhơn đã tìm được sự đồng cảm qua tập thơ “Nguồn Cội”. Anh đã thổ lộ tâm tình rất thật, diễn tả một tâm trạng buồn vui rất tự nhiên, như dòng nước “Ô Lâu” hiền hòa và ngọt ngào như bát chè “Cam Lộ”. Hoàn cảnh xa quê mỗi người mỗi khác nhau, thành bại của mỗi một đời người khác nhau nhưng nỗi lòng nhớ quê không có gì khác biệt.

Ngàn phương trời ra đi nhưng chỉ có một phương để trông về Cố quận. Ngàn mây dẫu có phiêu lãng bên trời, nhưng cũng về núi mỗi chiều, trăm sông dẫu có chảy qua muôn ngàn bến lạ rốt cuộc cũng xuôi về biển cả. Vạn vật đã như thế huống chi con người, vì thế Nguồn Cội là một biểu tượng thiêng liêng, là cuộc sống tâm linh không thể mất đi trong hồn của mỗi người ly xứ. Người xưa có câu: “Đồng bệnh tương liên” và tôi cũng có bao nhiêu năm xa quê nên khi đọc tập thơ “Nguồn Cội” của nhà thơ Phạm Bá Nhơn lòng tôi tràn đầy xúc cảm. Tôi vẫn mong có một ngày về được nhìn trăng sáng trước sân, thoang thoảng mùi hương cau, hương bưởi, được tận mắt nhìn những đóa tường vi nở trong sương sớm. Muốn thì vẫn muốn thế nhưng mỗi dặm đời đi quê hương cứ dần xa ngút ngát. Thôi thì! Cứ tạm là cánh chim bay vút lưng trời, cứ như  chiếc lá trên cành chỉ mong có một ngày trở về rừng xưa cội cũ.

Xuyên suốt trong tập thơ “Nguồn Cội” tác giả cũng có những bài thơ tình làm say đắm lòng người như bài: “Phút Hoài Niệm”:

“Ta mơ một sớm khung trời ấy
Vạt áo làm khăn lau mắt em”.

Hay:

“Nhưng rồi tất cả bao hoài niệm
Chảy suốt qua tim đọng giữa đời”

Và bài: “Em Đến”:

“Em đã đến lay lòng ta thức dậy
Sau đêm dài mê ngủ thiếp ngất ngây
Em đi ngang làm tim ta run rẩy
Để ta say sướt mướt suốt phương nầy”.

Và có một khổ cuối cùng của bài thơ “Hoa Xưa” làm tôi suy nghĩ mãi về một cánh bướm đa tình, bay đến vườn hoa để vờn nhụy, rồi lại lạnh lùng vỗ cánh bay đi.

“Trách chi con bướm bay từ sáng
Vui đậu bên hoa chỉ ít ngày
Cố tình ngửi trộm hương ngây dại
Lạnh lùng vỗ cánh mặc hoa lay”.

Và thơ anh còn nhiều bài thơ tình mà đọc lên cũng thấy từng “câu từ” thắm thiết diết da, thắm vào tim tận cùng của lòng mình và tận cùng của dòng máu đang luân lưu trong huyết quảng.

Khi đọc tập thơ “Nguồn Cội” tôi luôn đặt mình vào vị trí một độc giả. Đọc thơ của một tác giả, vì thế tôi mới cảm nhận hết nỗi lòng của nhà thơ. Mặc dầu tôi chưa được lần hạnh ngộ với tác giả nhưng đọc tập thơ “Nguồn Cội” tôi cảm nhận được tác giả luôn có tâm hồn mở rộng, luôn hướng về cái đẹp của chân thiện mỹ cũng đủ nói lên “nhân cách” của một người cầm bút.

Có thể nói thơ là làn sóng âm thanh xuất phát từ trái tim, khi độc giả đọc bài thơ rung động từ trái tim thì bài thơ ấy mới ăn sâu vĩnh viễn vào tâm thức của mỗi người!.

Nha Trang, ngày 20 tháng 01 năm 2013
 Hương Xuân

***
Võ Văn Hoa gởi đăng