Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

Tường Vi - CÓ MỘT BẢN DỊCH MỚI “TRUNG THÀNH” VỚI “HOÀNG HẠC LÂU, TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG" CỦA LÝ BẠCH

Lê Thiên Minh Khoa


Đã đăng trên:
Tuần san TÀI HOA TRẺ số 396, 30.11.2005
Tạp chí VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI, tháng 6.2002

    Bài thơ "Hoàng Hạc lâu, tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" của Lý Bạch từ nhiều năm nay được đưa vào chương trình văn học lớp 10 PT với bản dịch theo thể lục bát của nhà văn nổi tiếng, nhà Hán học uyên thâm Ngô Tất Tố (NTT). Bài thơ còn được nhiều bậc thâm nho dịch, trong đó có bản của Trần Trọng San, nhưng do dịch giả mới, Lê Thiên Minh Khoa (LTMK), một thầy giáo dạy văn, lại là một nhà thơ, biết thừa kế bản dịch của những người đi trước, hơn nữa lại dịch theo thể Đường luật thất ngôn tứ tuyệt và nhạy cảm với những “chữ thần”, những chỗ phá niêm luật trong thơ Lý Bạch phóng khoáng, nên bản dịch này lột tả được tình, ý trong nguyên tác và sát hợp với phong cách nghệ thuật của Lý Bạch.Vì gần với nguyên tác hơn nên nó đuợc thầy cô một số trường ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ sử dụng khi giảng dạy, nay được in trong tập thơ “Thị Trấn Tôi” của Lê Thiên Minh Khoa (NXB Thanh niên-2002). Xin giới thiệu cùng bạn đọc, thầy cô dạy văn và các em học sinh và xin mạn phép được bàn thêm về cái hay, cái đẹp, cái “trung thành” trong bản dịch mới.     
  

Nguyên tác:




Phiên âm:

Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
                                                                        Lý Bạch.
           Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
           Yên hoa tam nguyệt há Dương châu
           Cô phàm viễn ảnh bích không tận
           Duy kiến Trường giang thiên tế lưu.

Bản dịch mới của Lê Thiên Minh Khoa:

LẦU HOÀNG HẠC tiễn MẠNH HẠO NHIÊN đi QUẢNG LĂNG
 
Cố nhân xa lầu Hoàng Hạc rồi
Tháng ba hoa khói Dương Châu xuôi
Buồm đơn xa khuất bầu không biếc
Chỉ thấy Trường Giang hút cuối trời.

    Câu 1, phiên âm là “Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu” (dịch nghĩa: Bạn cũ giã từ lầu Hoàng Hạc, ở phía tây - Ngô Tất Tố  dịch: Bạn từ lầu hạc lên đường). Bản dịch của LTMK: “Cố nhân xa lầu Hoàng Hạc rồi” giữ lại được 2 cụm từ “Hoàng Hạc lâu” và "cố nhân" mang sắc thái cổ điển của nguyên tác: “cố nhân” không chỉ là “bạn cũ” mà còn là bạn thân, tri kỉ đồng điệu… Giữa Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên có chênh nhau về tuổi tác nhưng hoàn cảnh và tâm sự giống nhau, nên trong phút chia tay “cố nhân”, nhà thơ quyến luyến nhớ thương bạn. Câu thơ dịch còn giữ lại sự phá cách niêm luật nghiêm nhặt trong thơ Đường luật của Lý Bạch (chữ thứ hai lẽ ra phải trắc thay vì bằng như nhà thơ đã dùng: “nhân”). Hai từ “xa” và “rồi” biểu hiện được tinh tế một tình cảm kín đáo ẩn chứa trong câu nguyên tác, đó là tình bạn lưu luyến, nỗi buồn thuơng, nhớ tiếc của nhà thơ khi chia ly tiễn biệt “cố nhân”…

    Câu 2 trong nguyên văn: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” (Xuôi xuống Dương Châu giữa tháng ba hoa khói - Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng- NTT). Câu thơ dịch của LTMK: "Tháng ba hoa khói Dương Châu xuôi”, chữ nghĩa không thừa, không thiếu: "tháng ba hoa khói” vừa đủ để gây ấn tượng về thời gian, không gian đượm buồn của buổi chia tay.

    Tuy nhiên, phải nói rằng đến hai câu cuối mới bộc lộ hết nét tài hoa và tình bạn nồng đượm, thiết tha, cảm động của Lý Bạch trong buổi tiễn đưa không có giọt lệ bỡi lối "tả cảnh ngụ tình” của thi tiên và cũng chính ở đây mới thể hiện rõ sự đón nhận, thâm nhập tác phẩm một cách sáng tạo và cách sử dụng ngôn ngữ tinh tế cũng như tâm hồn đồng điệu, nhạy cảm thẩm mỹ của người dịch.

    Câu 3: "Cô phàm viễn ảnh bích không tận” (Bóng cánh buồm lẻ loi xa xăm lẫn trong khoảng không xanh biếc - Bóng buồm đã khuất bầu không-NTT). Câu thơ có 4 "nhãn tự”: "cô”, "viễn”, "bích” và “tận” có dung lượng rất cao mà thông thường một câu thơ dịch không hàm chứa nổi, chỉ nói riêng chữ “cô” ở câu nầy, xưa nay mấy ai dịch đạt (cũng khó dịch như chữ “cô” trong bài “Mộ”của Hồ Chí Minh vậy: Cô vân mạn mạn độ thiên không). LTMK đã “gói ghém” được cả 4 “chữ thần” nầy vào một câu thơ quốc ngữ: "Buồm đơn xa khuất bầu không biếc”, đặc biệt, dùng được chữ “đơn” để dịch chữ “cô” trong "cô phàm” thì quá hay, quá giỏi. Trong tiếng Việt, từ “đơn”có nhiều hàm nghĩa: mỏng (áo đơn, áo kép), lẻ loi, cô đơn (chăn đơn, gối chiếc)…, ở đây nó được hiểu theo nghĩa thứ 2: "buồm đơn” là cánh buồm lẻ loi, cô đơn…

    Câu kết trong nguyên bản: "Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu” (Chỉ thấy Trường Giang chảy miệt bên trời - Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời - NTT). Bản dịch mới: “Chỉ thấy Trường Giang hút cuối trời” rất chuẩn, lột tả được tinh thần của nguyên văn, nhất là chữ “hút”có nét riêng, mới lạ gợi tả dòng sông Trường Giang vô tận chảy miệt bên trời.

Có thể nói, đây là bản dịch đạt nhất, hay nhất, “trung thành” nhất của “Hoàng Hạc lâu, tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”, tính cho đến nay.

TP. Hồ Chí Minh, đầu năm 2002.
Tường Vi


PHỤ LỤC:

Một số  bản dịch trước đây:
  
LẦU HOÀNG HẠC tiễn MẠNH HẠO NHIÊN đi QUẢNG LĂNG

Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Bóng buồm chìm lẫn trong trời biếc
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau
                     Trần Trọng San dịch

Xuôi Dương Châu bỏ tây Hoàng Hạc                      
Tháng ba mây lũ lại xuôi ơi                                     
Buồm đơn bóng tít bầu xanh thẳm                            
Chỉ thấy dài sông chảy mãi thôi.                        
                     Hữu Loan dịch                          

Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng
Cánh buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy giòng sông bên trời.
                       Ngô Tất Tố dịch
 
Từ tây lầu Hạc - người xa
Tháng ba hoa khói xuôi nhòa Dương Châu
Chấm buồm hút thẳm xanh sâu
Thấy Trường Giang vắt ngang bầu trời trôi
                       Trương Nam Hương dịch


ĐỌC THÊM :

PHỎNG VẤN  Lê Thiên Minh Khoa về bản dịch  bài thơ “HOÀNG HẠC LÂU, tống MẠNH HẠO NHIÊN chi QUẢNG LĂNG“ của Lý Bạch -  Nguyễn Bá Hoàn thực hiện.

Trích trong các tác phẩm:
- Người và Việc: Những người nổi tiếng (NXB Hội Nhà Văn, 2006,từ trang 70-107 và từ 257-262).
- Người và Việc: Cánh buồm ngược gió (NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2008 , từ trang 289-327)

Nguyễn Bá Hoàn : Thị xã Bà Rịa chiều cuối tuần, trời mưa lất phất. Tôi ngồi đối diện với nhà thơ, nhà giáo ấy trong một quán cà phê cóc cạnh Nhà Tròn Bà Rịa, có “én liệng đầy trời” quanh di tích lịch sử quốc gia. Chiều xuống, tôi vừa “nhìn tất cả cuộc đời xuôi ngược lướt qua bên”, vừa nghe anh đọc “nhỏ nhẻ như câu tâm tình” bài thơ “Thị trấn tôi” của anh, vừa nhớ ray rứt cái thị xã quê tôi và nghe anh nói: “Tôi sống đất này tính ra đã 2/3 đời người. BR-VT là quê hương thứ hai của tôi”... 

PV: Anh có một bài thơ dịch được nhiều thầy giáo sử dụng khi giảng dạy vào học lớp 10: “Hoàng Hạc Lâm Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng” (*) của Lý Bạch . Cái gì khiến anh “dám” dịch lại bài thơ này trong trước đây nhiều cây đại thụ trong vườn nho học như Ngô tất Tố, Trần Trọng San… đã từng dịch nó?

LTMK: Cũng do chuyên môn dạy học cả thôi. Khi dạy bài thơ này theo bản dịch trong sách giáo khoa, khó khăn là phải đối chiếu với nguyên văn từng chữ, từng câu mới lột tả được tinh thần của nguyên tác. Vì vậy, tôi thử tìm tòi, tra cứu… để dịch bài thơ sao cho “trung thành” với nguyên tác hơn hầu dễ dạy hơn và học sinh dễ hiểu, cảm tác phẩm hơn… Ai ngờ nó lại được một số đồng nghiệp trong tỉnh sử dụng. Cách đây 5 năm, bản dịch được Tường Vi giới thiệu trên chuyên mục “Văn Học Trong Nhà Trường”của Báo Văn Nghệ Đồng Nai thì lại thêm nhiều thầy cô biết đến. Năm rồi, nó lại được giới thiệu lại trên tuần san Tài Hoa Trẻ (Bộ GD-ĐT) cũng trong mục “Văn Học Trong Nhà Trường” nên được phổ biến rộng rãi hơn. Nhờ đó, tôi nhận được nhiều thư của các thầy cô giáo dạy văn và một số nhà nghiên cứu trong nước gửi thư đến để bày tỏ bày ý kiến…

PV: Có ý kiến nào phản đối không?

LTMK: Rất may là toàn những ý kiến “đồng thuận”. Xin nói thêm là, khi Tường Vi hỏi tôi về bài thơ để viết bài giới thiệu trên báo, tôi đã dặn trước với Tường Vi là: có thể khen, chê bản dịch của tôi, nhưng đừng “đụng chạm” đến người đi trước. Rất may là trong bài giới thiệu Tường Vi giữ đúng lời hứa và anh còn viết rằng: “Lê Thiên Minh Khoa biết thừa kế bản dịch của những người đi trước …”, nên đỡ cho tôi lắm…

PV: Anh còn dịch thơ phương Tây ra tiếng Việt?

LTMK: Cũng thỉnh thoảng thôi, nhưng mà tôi dịch qua bản tiếng Anh những bài thơ có cái từ hay. Thơ của các nhà thơ lơn phương Tây thường có các từ rất hay, rất độc đáo, cái làm nên thơ hiện đại. Do ngôn ngữ bất đồng và thở thơ khác nhau nên theo tôi, dịch thơ phương Tây chủ yếu là nắm bắt cho được cấu từ và tình ý trong bài thơ. Xin được khoe với anh bài thơ “Em yêu mùa xuân” tôi dịch của Sandor Petofi, một nhà thơ lớn của Hungari, một bài thơ có cấu từ rất đặc sắc: “Em Yêu Mùa Xuân”:

“Em thì yêu mùa xuân
Anh thì yêu mùa thu
Nên em là mùa xuân
Còn anh là mùa thu

Trên má em, mùa xuân
Hé nở tựa hoa hồng
Lờ đờ trong mắt anh
Xám xịt mặt trời thu

Anh chỉ còn một bước
Còn một bước nữa thôi
Gặp mùa động lạnh ngắt
Rình rập anh lâu rồi

Em bước lên phía trước
Anh lùi lại phía sau
Chúng mình sẽ gặp nhau
Giữa mùa hè nồng cháy”.
             
                 Nguyễn Bá Hoàn

Thơ Trúc Thanh Tâm - CHUYỆN CỔ TÍCH - CHUYỆN NHƯ ĐÙA



CHUYỆN CỔ TÍCH
 
Trệt xuống đất cho mát trời ông địa
Nước mắt quê hương uống thét phát ghiền
Mấy thằng nam đừng chơi gian lận
Lót long đền, phái nữ họ ghen!
 
Món dân dã, lai rai tới bến
Đâu ở đâu, lại giống xứ mình
Trước khi chết còn xuống câu vọng cổ
Bạn ta cười, vỗ vế, y kinh!
 
Mấy bà bạn trông còn được đại
Lâu ngày giờ như thấy hồi xuân
Mấy cha cứ đèo bồng, phát ớn
Nước nôi gì mà cứ phân vân!
 
Cạn ly đi để nhớ hồi con nít
Chơi nhà chòi cùng rủ tắm mưa
Của thượng đế cho thì cứ nhận
Ai nhớ quên cũng tới bây giờ!
 
Nhỏ nhiết gì, thân ai nấy giữ
Nhắc làm chi quá khứ, thêm thèm
Nghèo, giàu gì cũng thời có số
Cục đất không còn mà để chọi chim!
 
Quên tuổi trẻ để sống vì tuổi trẻ
Suôi gia rồi sống hết đời đi
Người dưng cả, đừng chơi kê tán
Lỡ có ai lén thấy, phân bì!
 
Bạn bè cũ gặp nhau quá đã
Vui thật tình nghĩ chi tới trăm năm
Đồ nhấm nháp còn nằm chương ướng
Sao mấy cha lại muốn ăn năn!
 
Mấy chục năm, biết trên biết dưới
Có chìm xuồng cũng hú hí cho vui
Hương một thuở nghe còn thơm phức
Nhầm nhò gì, chuyện cổ tích, trời ơi!

  Thềm xuân 2013
  TRÚC THANH TÂM



CHUYỆN NHƯ ĐÙA
 
Ta đã chết mà như không chết
Hồn vẫn còn quanh quẩn trần gian
Bởi địa ngục không còn chỗ trống
Và phía kia, khóa cửa thiên đàng!
 
Nghĩ mà thương những thằng bạc số
Sống trên đời chẳng có xác thân
Nghĩ mà tủi những lời hoa mỹ
Núp sau lưng mua bán quỷ thần!
 
Ta trở lại căn nhà từ biệt
Người thân vui, hồn cũng đỡ buồn
Vừa chạy được lá bùa hóa kiếp
Ghé Sài Gòn, ăn mì gõ đêm hôm!

Ở mọi miền, chợ đêm đâu cũng có
Chỗ bán thức ăn, chỗ bán nước, tuyệt vời
Đèn lấp lánh treo đời phù phiếm
Ta thấy mình sét đánh một lằn roi!

Chốn nhộn nhịp và những nơi mạt rệp
Cũng đèn dầu, cũng đấu đá, nhà xiu
Ba, bảy chục năm may mà được sống
Nghe quốc gọi bầy, bìm bịp lại kêu!

Ta đã biết đời là bến tạm
Bốn ngàn năm, gang tấc có gì xa
Những xác chết đã giữ yên bờ cõi
Hồn hóa thành cầu nối tới Trường  Sa!

Trăng hí hởn thả mình trên biển
Nào biết nỗi đau khi sóng vỡ tràn bờ
Ngủ một giấc cho thấy còn sáng suốt
Biết bạn, biết thù, biết rõ những ngu ngơ!
 
Sáng ra chợ, lựa vĩa hè gió mát
Trải chiếu ra, bày bán thuốc trường sinh
Khui một chai thuốc sâu cực mạnh
Ực một hơi, chẳng chút rùng mình!
 
Người chung quanh, ồ lên nhăn mặt
Sao ông ngu, uống thứ chết người
Tôi đã uống thuốc trường sinh trước đó
Chứng tỏ mình bán thật thuốc hay!
 
Người ủng hộ ngày càng đông đúc
Như tôm tươi, mặc sức đếm tiền
Chỉ những kẻ trên đời sợ sống
Mới mua giùm thằng quãng cáo thuốc tiên!

 Châu Đốc,10-01-2013
 TRÚC THANH TÂM                                                                     
       

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2013

MẠ MÃI CÒN - Hồ Trọng Trí họa thơ Lê Văn Thanh


         
         MẠ MÃI CÒN
         (Họa bài Mẹ Vẫn Còn của Lê Văn Thanh)

         Mạ chuyển trang đời mới....mạ ơi!
         Mạ quy tiên tổ - gặp cha rồi.
         Con vui thấy mạ tròn trăm tuổi.
         Mạ thỏa nhìn con đủ với đời.
         Kháng chiến hai thời - vai gánh nợ.
         Nuôi con một bóng - đội ơn trời.
         Tha hương tùy thuận tuồng dâu bể.
         Còn MẠ trong con cháu... mạ ơi!

                               Hồ Trọng Trí
                               Kim long, BRVT
                               ĐT: 01667332652         


 Lê Văn Thanh
 MẸ VẪN CÒN


            Mẹ đã đi rồi ! Mẹ ...  mẹ ơi !
            Từ nay con mất mẹ thật rồi
            Tình yêu của mẹ nuôi con lớn
            Tính thiện cho con hiểu lẽ đời
            Thời trẻ nhiệt thành, hai vai nặng
            Về già vô vọng, một phương trời
            Thương con mến cháu đành ly xứ
            Mẹ mãi còn đây . Mẹ ... mẹ ơi !

                                   

NHUNG NHỚ - Lê Văn Thanh họa thơ Thy Lệ Trang


          Họa Y Đề thơ Thi Lệ Trang

          NHUNG NHỚ

         Trời ban nhân loại thế mà thôi
         Vừa đủ âm dương rạo rực rồi
         Giao cảm nồng nàn say ánh mắt
         Tình yêu nóng bỏng cháy vành môi
         Dòng đời tiếp diễn trong giây phút
         Hạnh phúc chan hòa lúc hợp đôi
         Em hỡi, trần gian luôn biến diễn
         Nhớ nhung... mơ ước... đẹp thêm đời

                                               Lê Văn Thanh

Lê Văn Thanh
01696 088 466


BÀI XƯỚNG

NHUNG NHỚ

Chỉ là phớt nhẹ nụ hôn thôi
Cũng đủ cho nhau tất cả rồi
Hạnh phúc nồng nàn dâng khóe mắt
Tình yêu nóng bỏng ngập bờ môi
Trăm năm cứ ngỡ duyên tơ tóc
Trọn kiếp đâu ngờ phận lẻ đôi
Cách biệt hai phương trời dịu vợi
Phút giây... nhung nhớ... mãi trong đời

                                THY LỆ TRANG




Họa y đề: NHUNG NHỚ
Thơ: Thy Lệ Trang, Massachusets

          Tình yêu lãng mạn -Thế mà thôi!
          Dâng hiến nụ hôn tuyệt nhất rồi.
          Rạo rực tâm hồn sâu đáy mắt.
          Khát khao tình cảm nóng làn môi
          Đam mê say đắm quên trời đất.
          Hạnh phúc nồng nàn ngỡ môt đôi.
          Bạn hỡi! Hãy thương màu kỷ niệm.
          Nhớ nhung Tình mộng... đẹp hơn đời.

                                        Hồ Trọng Trí
                             Kim long, Bà Rịa - Vũng Tàu
                             Đt:  01667332652        

TRĂNG DẤU MÔI - KHÚC CA ĐỒNG VỌNG - thơ Hải Thụy




TRĂNG DẤU MÔI

Lưng đồi nhặt bóng hoàng hông
Khi không chợt nhớ cánh đồng - sông quê
Cánh Diều đánh võng bờ đê
Nghé ơi ! nghé ọ - sáo về nẻo xa


Mùa hương bưởi mật cạnh nhà
… lá vàng rụng xuống hồn ta lịm ngày
Tháng năm ngút – ngái tầm tay
Mày ngang – trán rộng dạn dày chân chim


Ruổi rong mỏi mắt kiếm tìm
Mòn thân lữ thứ con tim héo gầy
Phương nao “cúc tím” có hay
Sương chiều lãng đãng lại cay mắt mình


Trăng non soi bóng vô tình
…cớ chi đáy suối lưu hình – nửa môi?!



KHÚC CA ĐỒNG VỌNG

Sương chiều đẩm ướt ngọn cau
Trớ trêu chi… buộc dây trầu - đá vôi


Từ ngày tre cụt mồ côi
Ngỡ rằng tim đã mục rồi còn đâu
Sông Quê bỗng nối chiếc cầu
… sầu đông lại trở tươi màu nắng mai


Đêm lên bớt tiếng thở dài
Mắt nâu ai hớp lòng ai biết nào
Tình yêu lộng sắc ca dao
… bầu – bí khác giống chung rào trổ hoa


Mùa vàng đồng vọng khúc ca
Người ơi chớ để trăng tà  - heo may
Nỗi buồn rủ áo xa bay
… niềm vui về trọ trong mày – môi cong !

                              HẢI THỤY
                              haithuydnb@gmail.com

NHỮNG VÁN CỜ - thơ Vũ Từ Sơn



Để yên bàn gỗ quân sừng
vào cuộc trận đấu tưng bừng xuất quân
điều binh xe pháo xa gần
vượt sông giáp chiến, mưu thần bày ra

Tượng oai không sang nổi hà
mã hay khéo cản, biết là về đâu
tướng tài ru rú cung sâu
sĩ hèn quanh quẩn trong lầu bó chân
châm ngòi pháo nổ vang ngân
bí cờ xe thí, tốt gần tốt xa ...

Chẳng kể bố con một nhà
chẳng tày bè bạn, bên ta - bên thù
vò đầu vỗ trán, khôn ngu
cao cờ chiếu tướng ... rối mù, xin thua !

Trong cờ, thua được như đùa
ngoài đời, xương thịt được thua mãi là !

VŨ TỪ SƠN
Hội viên Hội VHNT Bắc Giang
ĐC: Số 29, ngõ 137-Hùng Vương
TP Bắc Giang , tỉnh BG.


Thứ Năm, 11 tháng 4, 2013

Châu Thach - ĐỌC "XIN THƠ" CỦA LÊ ĐĂNG MÀNH

Lê Đăng Mành



XIN THƠ    

Quý Tỵ chắc đây cạn số rồi
Bên bờ ngắc ngoải kiếm bè bơi
Tập mài thư pháp dâng trao bạn
Học chuốt chữ câu kính hỏi người
Còn thở: ngửa vay sương mặt đất
Tắt hơi: cúi trả gió gầm trời
Có  ai thương cảm xin mời họa
Chín suối quảy về ngồi đọc chơi  

Lê Đăng Mành



Châu Thạch và cháu nội


Lời bình:  Châu Thạch

Tôi không biết hoàn cảnh của tác giả Lê đăng Mành ra sao, anh có thật sự đứng trước lưởi hái tử thần hay không, nhưng qua bài thơ của anh tôi thấy một tâm hồn thanh thoát, ngược đời và cởi bỏ được lo buồn trong cơn biến cố.

Hai câu mở đầu của bài thơ cũng bình thường như nhiều bài thơ Đường luật, có khác chăng là ở đây giới thiệu một hoàng cảnh không vui, người trong thơ bi quan cho số mệnh của mình:
  
Quý Tỵ chắc đây cạn số rồi              
Bên bờ ngắc ngoải kiếm bè bơi

Bước qua hai câu trạng là một tư tưởng đột phá, mới lạ và ngược đời nhưng lại vô cùng siêu thoát mà tôi chưa từng thấy ở giữa đời nầy:

Tập mài thư pháp dâng trao bạn              
Học chuốt chữ câu kính hỏi người

Đứng trước lưởi hai tử thần mà không run sợ, âu lo là điều hiếm thấy, cười cợt châm biếm tử thần đã là người can đảm, nhưng ở đây không như thế, mà ngược lại tác giả tập thư pháp để dâng trao bạn, học làm thơ để kính hỏi người là một diều vượt trội, mấy ai dám nghĩ tới đâu. Đó phải chăng là một sự ngược đời? Đúng, đó là một sự ngược đời, trái với tâm trạng bao người đang “Bên bờ ngắc ngoải kiếm bè bơi”. Nhưng chính cái ngược đời ấy chỉ xảy ra ở các bậc chân tu dạt được chân lý và thấu đáo lẽ vô thường. Hơn nữa dầu các bậc chân tu biết trước giờ ra đi họ cũng đều trì niệm, tỉnh tọa an thần chứ có ai còn tập vui chơi thư pháp, chuốt chữ đề câu để dâng trao bạn, kính hỏi người như tác giả “Xin Thơ”. Tôi có viết một bài “Cách tu mới” nói về một cách tu hay hơn tôn giáo. Đó là cách tu “Làm thơ Đường luật”. Đây chỉ là một bài viết vui thôi, nhưng nay đọc hai câu của Lê đăng Mành tôi nghĩ rằng biết đâu nhà thơ cũng có cách “Tu thơ” như thế, mới vô cùng bình thản chơi chữ, chơi thơ trước tử thần.

Qua hai câu luận tác giả mở ra một không gian rộng lớn, trong đó nổi bật hai hình ảnh vừa đẹp vừa trong, bày tỏ cho cái ước nguyện thanh cao trong tâm hồn tác giả:

Còn thở: ngửa vay sương mặt đất                
Tắt hơi: cúi trả gió gầm trời

 - “Sương mặt đất” thể hiện cho vẽ đẹp thanh bai êm dịu, “Gió gầm trời” thể hiện sự nhẹ nhàng có sức mạnh vô biên.

- “Còn thở: ngửa vay sương mặt đất”: Vậy sương mặt đất là nguồn sống, một nguồn sống mong manh dễ dàng tan vỡ.

- “Tắt hơi: cúi trả gió gầm trời”: Gió gầm trời là một năng lực siêu phàm

Vay của sương mặt đất mà trả thì trả cho gió gầm trời nghĩa là sương mặt đất và gió gầm trời là một, cũng chính là quyền lực hay là đấng ban cho và nhận lại. Hai câu thơ nói được cái thân thể, linh hồn nhỏ bé của tác giả kết tụ một phần tinh túy của vẻ đẹp, của sức mạnh vô biên tồn tại giữa đất trời. Lời thơ tuy có vẻ bi quan nhưng ý thơ tôn vinh con người vượt trên cái hữu hạn để hòa nhập vào cái vô hạn cao xa và siêu thoát.

Hai câu kết của bài thơ mang hết cái vẻ đẹp của một tiên ông thong dong và tự tại:             
         
Có ai thương cảm xin mời họa               
Chín suối quảy về ngồi đọc chơi.

Xin hãy đọc bài thơ của Phạm Thái:                 
              
Sống ở dương gian đánh chén nhè                   
Thác về âm phủ cắp kè kè                   
Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?                                    
Be!

Đây là một bài thơ ngạo nghễ, mang cái đam mê trần tục xuống địa phủ bằng một dáng vẻ coi thường tất cả mọi sự ở đời. Lê đăng Mành thì khác, mang cái đam mê của thần tiên xuống địa phủ bằng hết thảy sự trân trọng yêu quý của mình. Uống rượu mà “Đánh chén nhè”, “Cắp kè kè” thì chỉ người trần phàm phu mới làm vậy, còn thơ mà “Quảy về” là cốt cách của tiên ông. Hai câu kết của “Xin Thơ” cũng có thể là một sự ngạo nghễ nhưng là sự ngạo nghễ vơi mọi biến động từ bên ngoài tâm hồn để cho mình tự tại dầu bất cứ ở đâu. Đem thơ lên trời để chơi với tiên thì có nhiều, nhưng quảy thơ xuống địa ngục thì xưa nay hầu như không có, và quả thật làm tiên trên trời thì dễ nhưng làm tiên địa ngục thì khó vô cùng. Cho nên có thể gọi là cách mạng ở hai câu kết của “Xin Thơ

Ngày nay thơ Đường được sản xuất rất nhiều, nó như từ trong máy phun ra nên thường giống từ, giống ý, lặp lại những gì đã nói tự ngàn xưa. Bài “Xin Thơ” tôi cho là ngược đời, nhưng tôi thú vị với cái ngược đời như thế.

Chỉ  là viết theo chủ quan với sự dốt nát hời hợt của mình,có gì sai xin lượng tình tha thứ.                                                    

Châu Thạch