Hiển thị các bài đăng có nhãn Lê Hoàng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lê Hoàng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Lê Hoàng - CỐ NHÂN



                            Thả bước ngày Xuân đến viếng chùa
                                Ngạc nhiên quen quá dáng em xưa
                                Non cao một dãy bao kỷ niệm
                                Mắt biếc long lanh lắm kẻ ưa
                                Sóng vổ trong lòng ôi luyến nhớ
                                Cổng chùa chờ đợi bước chân thưa
                                Chiếc trâm cài đó tình lưu mãi
                                Mấy kiếp chờ nhau ... một chuyến đò.

                                                                      Lê Hoàng
lehoang775@gmail.com
                                                  (Alamedamột chiều Xuân)

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Lê Hoàng - CHÁNH TÍN VÀ MÊ TÍN



      Tôi có được nhân duyên nghe vị thiền sư THÍCH THANH TỪ  giảng về "Chánh tín và mê tín”. Từ đó, tôi ngộ ra rằng: "Mình còn mắc nhiều lỗi lầm và làm những công việc thường tình trong đời một cách thất tín mà chưa biết rõ đâu đúng, đâu sai.

     Vì lẽ đó, tôi viết lại những điều được học qua sự giảng dạy của thầy.

     Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều biện bày dưới ánh sáng GIÁC NGỘ, nhận thấy lẽ thật rồi mới khởi lòng TIN, đó là "CHÁNH TÍN". Ngược lại, bày những điều mê hoặc làm mù quáng người đời, lừa bịp thế gian, ấy là "MÊ TÍN".

     Trong kinh Hoa Nghiêm có câu: "Tin là nguồn của Đạo, là mẹ của mọi công đức", vì thế, người học đạo phải có lòng tin.

     MÊ TÍN: Mê tín là lối tin mù quáng, khiến con người mất hết trí thông minh. Những kẻ chủ trương mê tín là những người làm việc hoặc loạn thế gian, đưa dân tộc lùi lại bán khai. Một tôn giáo chân chính, một dân tộc thông minh, không cho phép mê tín len lỏi trong tín đồ cũa mình, trong dân tộc mình. Thế mà, đồng bào chúng ta hiện quá nhiều tệ đoan mê tín.

     1/ ĐỒNG CỐT:  Đó là một hiện tượng mê hoặc khủng khiếp. Những kẻ làm ông đồng, bà cốt, đều  là những người sống trong trạng thái bất bình thường. Bản thân họ đã mất hết tự chủ. Họ bị sai khiến từ một ma lực huyền bị, hoặc họ tự biện ra một thủ thuật không thực để lừa đảo thế gian. Khi ma lực đó dựa vào họ, lạm dụng các danh xưng để lừa bịp người đời mà thôi. Thường thường Bồ Tát hay La Hán muốn hoá độ chúng sanh không khi nào các vị phải gá vào thân kẻ phàm tục để xưng danh để giáo hoá chúng sanh.Vì các vị đó đầy đủ thần thông biến hoá vô ngại. Như thế, những ma lực dựa vào kẻ phàm tục là những quỷ thần bạo lực, chúng tự xưng danh mạo nhận những vị Bồ Tát để gây uy thế mà thôi.

      Nếu là Phật tử chân chính hãy tránh xa, tuyệt đối không được phụ họa theo.

      2/ LỊCH SỐ, SAO HẠN: Thời gian không thật do khái niệm con người đặt ra, huống là trên thời gian người ta lại đặt ra ngày TỐT, ngày XẤU, năm  LÀNH, năm DỮ ...

      Nhật cầu, nguyệt cầu và địa cầu chẵng qua cũng chỉ là vật vô tri, chúng quay gần nhau theo cái trục cố định ở trong Thái Dương hệ nên ảnh hưởng ánh sáng, tối, sáng, trồi trụt với nhau ..., thế rồi con nguời sống trên địa cầu, trông vào sự sáng tối đó, tùy khái niệm đặt thành ngày đêm, giờ phút theo sự phản chiếu để đăt ra ngày rằm, mồng một ba muơi.v.v. để có tháng, năm thế thôi. Thực chất, nó vẫn là không thật.

      Cho nên coi ngày Tốt, xấu là tự mình trói buộc mình vào cái điều không thực. Người nông dân miền Namcó câu :
         “Cọp vật mấy ông thầy Địạ,
           yêu nhai mấy chú coi ngày
          Trớ trêu họ khéo đặt bày.
          Hai đưá mình thương thiệt,
          ông trời nào bảo thương ?"

      3/ COI TAY, XEM TƯỚNG:  Coi tay xem tướng cũng chẵng qua là một thủ thuật có khi trúng khi trật tùy theo may rủi mà thôi. Cho nên ông "thầy" tướng luôn luôn có câu thòng "Những điều xấu của qúy vị nếu có phúc, ăn lành ở hiền thì tai nạn qua khỏi ...." để ngụy biện cho trường hợp "thấy" coi có nạn xấu mà đến ngày tháng đó… chẳng thấy có gì xẩy ra...

      Chúng ta nhìn rỏ hai mặt Tốt và xấu đều có thể xẩy ra cho mình. Vậy thì đi coi bói, coi tướng làm gì cho mất tiền thêm lo.

      Có bài kệ rằng:
                  Hữu tâm vô tướng,
                  Tướng tự tâm sanh
                  Hữu tướng vô tâm
                  Tướng tùng tâm diệt.
      Dịch :  
                  Có tâm tốt, không tướng tốt
                  Tướng tốt theo tâm tốt sanh
                  Có tướng tốt khôngtâm tốt
                  Tướng tốt theo tâm mà xấu.  

      Thế nên, chúng ta cần phát tâm tốt, làm việc tốt, điều tốt sẽ đến; chúng ta chưá chấp những tâm niệm xấu thì mọi điều dữ sẽ đến. Điều căn bản là chúng ta làm tốt hay làm xấu, quả tốt xấu sẽ đến với chúng ta, nó không quan trọng ở bàn tay hay số mạng cũa chúng ta.

     Kể cả vấn đề XIN XĂM, BÓI QUẺ cũng thế. Mọi điều đều do NHÂN QUẢ mà có.

     Cho nên: Taycầm tiền bạc bo bo,
                     Đem cho "thầy bói" mang lo vào mình.

     Làm việc không lợi ích, lại tốn hao tiền bạc, mang lo sợ vào lòng. Ấy, không phải mê tín là gì?

     Ngoài ra còn tật cúng sao, xem hướng, đốt giấy tiền vàng mã... tất cả cũng là những điều lạc hậu, lỗi thời. Sao là những hành tinh cách xa ta hàng vạn dặm. Vậy nó là gì để chúng ta phải cúng? phải dương? không thể hiểu đươc! Hiện nay, thỉnh thoảng có một vài chùa chiền đến Tết, mùa Xuân vẫn còn tổ chức lễ dương sao, cúng hạn... để gây quỹ cho chùa? Việc làm này thực sự không đúng.

     Đạo lý nhân quả Phật dạy rất rõ ràng trong kinh mà người ta bất chấp hay quên đi để làm những điều mê tín.
     Đổi, dời vị trí bếp hay thay đổi hướng nhà, hướng giường nằm cũng đều là mê tín. Nó chỉ có giá trị khoa học để cho phù hợp không gian và môi trường mà thôi.

TAI HẠI CỦA MÊ TÍN:

       Người mê tín là người không có lý luận, tin bướng, tin càn, trở thành con người khờ khạo. Đó là hình ảnh những người tin vào ông đồng, bà cốt. Người mê tín tin vào sự lố bịch. Họ bị cột trói vào mê tín, họ không dám quyết định một điều gì cho bản thân mà chỉ trông vào điều tốt xấu, ngày giờ ... nên có khi họ để mất cơ hội tốt đến với mình, thậm chí họ trở thành kẻ khiếp nhược, mất tự tin.

SỰ CẦU NGUYỆN NHƯ THẾ NÀO ?

     Mỗi khi đi chùa tụng kinh, mọi Phật sự đều có CẦU NGUYỆN. Vậy sự cầu nguyện này Chánh tín hay Mê tín? Câu trả lời này có hai vế:

      - MÊ TÍN: Nếu chúng ta khẵng định rằng mọi sự cầu nguyện đều được toại nguyện. Bởi lẽ, thế gian lắm kẻ tạo nghiệp, nếu cầu nguyện mà được, thì không cần nói đến nhân quả, nghiệp báo.  Nếu mọi việc xẩy ra do nhân quả, thì việc cầu nguyện trở thành vô ích. Kẻ tạo nghiệp dữ thì nghiệp báo sẽ đến, cho dù có cầu nguyện cũng vô ích, nên không thể nói cầu nguyện là hoàn toàn như ý. Chấp cố định là sai lầm, không hợp lý.  
  
     - CHÁNH TÍN: Tin nhân quả. Đứng về chiều thời gian, vạn vật hiện có trong vũ trụ này không có một vật nào thoát ngoài nhân quả mà được hình thành. Trên tiến trình SINH, DIỆT quyết hẳn vạn vật từ nhân tiến đến quả, từ quả trở lại nhân. Nhân quả, quả nhân xoay vần không dứt. Đó là hiện tượng sinh hoá trên cõi dân gian này, nghiệm xét thấu đáo, chúng ta không thấy có một vật gì không nhân mà có, ngẫu nhiên mà thành. Thấy rõ lý nhân quả, chúng ta nắm chắc quyền tự chủ, tạo dựng tương lai tươi đẹp cho chính mình. Lý nhân quả vừa là khoa học, vừa là sức mạnh chuyển tiến của con người tiến bộ.

     Cho nên nhân quả và nhân duyên trong vũ trụ hợp thành, là tác dụng của trí tuệ. Thâm đạt lý nhân quả, nhân duyên người đó sẽ nhận lấy trách nhiệm NÊN, HƯ, HAY, DỞ ,TỐT, XẤU  đều do mình.

     Biết rõ như thế, con người sẻ có tự tin ở mình và tùy nhân quả, nhân duyên để phát huy điều chánh tín cho bản thân trong mai sau.

      Mê tín và chánh tín là hai con đường ngược chiều. Nếu đi bên tối sẽ không có  ánh sáng và ngược lại. Cũng có thể do người truyền đạo không thông về lý đạo, nên ghép những tập tục của thế gian vào trong đạo, khiến người ta hiểu lầm ĐẠO PHẬT là MÊ TÍN.

     Đây là OAN TÌNH của đạo Phật. Tất cả những kinh Phật không có nói những việc mê tín ấy.

                                                                        Lê  Hoàng
lehoang775@gmail.com

Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013

NHÂN SINH QUAN TRONG PHẬT GIÁO - Lê Hoàng


                                                         
     Phàm trong cuộc sống hiện tại, con người phải liên hệ với xã hội, công ăn việc làm, cấp trên, thuộc cấp, bạn bè, anh em,và hầu như đủ thành phần trong xã hội mà công việc hằng ngày mình cần phải tiếp xúc ... thế là nhiều phiền toái, rắc rối thường hay xẩy ra cho cuộc sống. Con người phải chịu nhiều điều giáng lên trên cuộc sống, phần nhiều là đau khổ, phiền não hơn là cái hạnh phúc mưu cầu hàng ngày.

    Khi về hưu, về già tâm hồn con người thường lắng đọng, tư tưởng có kẻ yếm thế, có người thì lạc quan, có khi đâm ra trầm cảm. Thơ, văn, nhạc ... thường là những thứ làm cho con người nhẹ bớt đi những điều đang mang nặng trong lòng. Họ có thể tụ họp thành từng "nhóm" để cùng nhau đối ẩm trong những lúc "trà dư, tửu lạc". Cùng nhau ca hát, hay ngâm thơ, xướng họa v.v... Ngày nay, nhờ mạng internet nên cho dù xa cách hàng vạn dặm vẫn cứ ngỡ như là gần bên nhau để cùng nhau trao đổi tâm tình qua thi ca, thơ, nhạc v.v...
     Tuy vậy, không phải trong lòng con người ai cũng "cỡi mở", cũng thoái mái giao lưu một cách rộng lượng.
      Những điều hỷ, nộ, ái, ố.... lẻ tất nhiên phải xẩy ra ... nhưng lắm ai bỏ chín làm mười mà hầu như bản chất: tham, sân, si lúc nào cũng tồn tại không ít trong lòng họ.
    Càng về tuổi già, con người càng trầm lặng và dễ tha thứ, chịu đựng hơn tuổi trẻ . Sau đây, tôi xin trình bày qua một vài điều khái niệm về "nhân sinh quan " qua Phật pháp trong giáo lý của  đức Phật .
      Theo định nghĩa của Phật giáo: "Phật pháp" là :  Giáo pháp do đức Phật Thích Ca nói ra với mục đích chỉ dạy về vấn đề chân lý của vũ trụ và nhân sinh. Giáo pháp của đức Phật nói ra rất nhiều, về sau các đệ tử Phật kế tập, ghi chép lại thành ba tạng kinh điển. Nhưng giáo pháp đức Phật nói ra tóm lại có bốn thứ đạo lý căn bản rất quan trọng, bốn điều đạo lý này, tât cả hai phái Đại Thừa và Tiểu Thừa đều phải ghi nhận, làm nấc thang chính cho bước đường tu học để tiến tới Phật quả.
     Bốn thứ đạo lý đó là :
      1/ Vô thường:  Hết thảy mọi sự vật trên thế gian này luôn luôn thay đổi, từng giây, từng phút không có gì tồn tại vĩnh cửu.Vì sự vật vô thường, biến đổi, nên con người phải: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Thế giới thì: Thành, Trụ, Hoại, Không.
    Chúng ta, vì vọng tưởng mê chấp, không hiểu mà cho là thuờng trụ, không thay đổi, nên mới tham, cầu ... không biết thỏa mãn, rồi mê chấp, cái gì cũng cho là của mình (ngã chấp) để khởi ra những điều mê lầm, tạo ra những ác nghiệp, nên phải chịu luân hồi sinh tử, trong nhiều đời nhiều kiếp, không được giải thoát. Đức Phật chỉ dạy hai chữ VÔ THƯỜNG với mục đích muốn phá trừ những vọng chấp của con người. Khi chúng ta đã hiểu rằng tất cả những sự vật trên thế gian này đều là vô thường thì tất cả mọi sự mọi vật trên đời này cũng như mây trôi, nước chảy, không có gì là thực cả, như trong kinh Kim Cang chép: "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác, như thị quán" nghĩa là tất cả các Pháp hữu vi đều như là giấc chiêm bao, như bọt nuớc, như sương ban mai, như điện chớp, nên phải quán sát như thế.
    2/ Khổ :Chúng ta có hai thứ khổ căn bản . a/ Khổ về tâm. b/Khổ về thân. Khổ về tâm là: Tham, Sân, Si, Phiền Não; còn khổ về thân là:Già nua, Bệnh tật và Chết chóc. Nó cứ nối tiếp nhau gây nên sự đau khổ cho con người. Trong gia đình thì việc :"Cơm ăn, áo mặc, tiền bạc: khổ;  sinh ly, tử biệt: khổ; tranh đấu với nhau về vấn đề phải trái: khổ; oán ghét nhau mà đôi khi cũng phải gặp gở nhau trong công việc: khổ. Ngoài những thứ ấy ra, trong tâm ta mong muốn điều gì mà không được cũng mang khổ v.v... Con người sống trên đời mang rất nhiều thứ khổ. Nó luôn luôn khống chế ta, bắt buộc ta phải sinh hoạt theo cái khổ.
   Nếu biết khổ, quyết tâm tìm cách lìa cái khổ để tu học Phật pháp, tìm kiếm sự vui cho hết khổ. Đó là con đường tiến vào đạo Phật vậy.
    3/ KHÔNG: "Không"là gì ? Không là duyên khởi sinh ra tất cả những sự vật, tất cả những thứ gì có hình tướng trên thế giới đều do nhân duyên hòa hợp mới sinh ra. Nhân là điều kiện chủ yếu sinh ra sự vật, còn duyên là điều kiện hổ trợ để sinh ra sự vật. Nếu "duyên" còn thì sự vật còn tồn tại. Trái lại, nếu khi "duyên" hết thì sự vật sẻ bị tiêu diệt, tan rã, vì vật nên gọi là KHÔNG. Một khi đã do nhân duyên sinh, đến khi nhân duyên hết, nó sẽ không thể tồn tại. Cho nên, Phật đã dạy là KHÔNG. Như thân thể của ta do bốn đại: Đất, nước, lửa, gió ... kết thành. Khi bốn đại này ly tán, thì thân ta trở thành KHÔNG.
    4/ VÔ NGÃ:  Vô ngã là gì ?  Ngã là cái ta "le moi" . Vì chúng ta mê lầm nên chấp cái gì cũng thuộc về mình là NGÃ. Tức là chấp NGÃ . Những điều gì mình thấy biết gọi là ngã kiến, những sự thật kể cả thân thể của mình cũng không phải của mình, mà nó thuộc về bốn đại (đất, nước, lửa, gió). Người đời thường mê chấp cho nên mới nhận thân thể là của ta. Chứ theo lời Phật dạy thì thân thể chúng ta đều do năm uẩn kết lại hợp thành. Vậy năm uẩn đó là gì?  Là: "Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức". Sắc uẩn: thuộc về vật chất, còn Thụ,Tưởng, Hành và Thức thuộc về tinh thần. Năm uẩn kết thành thân thể của ta. Cũng chỉ là nhân duyên giã hợp, chứ không có thực thể, vì vậy, nó không thể tồn tại mãi mãi ... nên mới gọi là VÔ NGÃ.
     Triết lý Phật Giáo tuy cao siêu, không chỉ bàn về lý luận tôn giáo mà còn chú trọng về vấn đề thực hành, tức là muốn đem phát huy chân lý liễu ngộ của sự sinh hoạt thực tiễn hằng ngày để lý luận và phối hợp, có nghĩa là: Nói và làm phải hợp nhất thì mới đúng là chân chính phục vụ Phật Pháp.
   Sau đây qua một câu chuyện của Tô Đông Pha để chúng ta hiểu thêm về triết lý của Phật Giáo .
      Tô Đông Pha nguyên là một quan đại thần trong triều chức vụ  như bây giờ là bộ trưởng hay tương đương. Ông lại là một Phật tử rất thâm hiểu Phật pháp. Một hôm ông đến thăm ngài Phật Ấn.
     Đại Sư Phật Ấn nói "Ở đây, không có chỗ cho đại thần ngồi.(Vì trong lúc nầy vị đại sư đang thuyết pháp).Vì là người cao thâm hiểu rộng về Phật pháp nên Tô Đông Pha mới đáp lại như sau :"Tôi muốn mượn cái thân tứ đại của đại sư để làm ghế ngồi, đỡ một chút có được không ? (Đó là hai vị dùng ngôn ngữ "thiền" trong Phật giáo ).
    Đại sư trả lời :"Đại thần là người có nhiều công phu nghiên cứu Phật pháp, nên ông đã hiểu rỏ ý nghĩa cao sâu của đạo Phật rồi. Vậy tôi xin hỏi lại ngài, nếu ngài đáp lại được thì tôi sẵn sàng đem cái thân tứ đại cho ngài làm ghế ngồi. Nếu không trả lời được, thì ngài phải cởi bỏ aó mão mũ đai, huy hiệu nhà vua mà để lại ở đây.Ngài có đồng ý không?”.
     Tô Đông Pha đồng ý.
     Đại Sư hỏi: "Thưa đại thần: Đức Phật dạy:" Bốn đại đều KHÔNG, năm uẩn không phải của ta, vậy ông lấy cái gì để mà ngồi ?" Lẻ dĩ nhiên Tô Đông Pha chịu không trả lời được.
     Ông ta bèn cởi áo mũ, huy hiệu vua ban để lại như đã hứa.
     Đối với đức Phật, một bậc đã giác ngộ chân lý hoàn toàn tuyệt đối nên ngài đã đề xướng thuyết cao siêu mầu nhiệm, đó là thuyết "nhân duyên sinh" như mười hai nhân duyên hay nói cách khác là mười hai hữu chi. Hữu là tất cả sự vật trong thế giới. Chi tức là từng phần ... mà tất cả các loài chúng sinh cứ bị chìm đắm mãi mãi trong vòng luân hồi sinh tử vậy.
                                                               Lê Hoàng .
                                                             ( Alameda 15/3/2013).

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Tản mạn về THƠ ĐƯỜNG - Lê Hoàng



                                                                            
       Thơ bắt nguổn từ cuộc sống, tâm hồn của con người và sự làm việc hằng ngày."Thơ" có rất nhiều dạng thơ như: Song thất, lục bát, thất ngôn tứ cú, thất ngôn bát cú, thể văn biến ngẫu v.v. Ngoài ra ca trù cũng có thể gọi là biến thể của thơ mà ra. Rồi thỉnh thoảng vẫn có những câu tạp đối, nó cũng là hình thức  biến dạng từ thơ mà ra. Ngoài những dạng thơ như trên, có một loại thơ nổi tiếng và rất thịnh hành từ trước đến nay, mặc dù lớp trẻ lớn lên hầu như ít để ý đến hoặc không hề biết tới. Đó là thơ ĐƯỜNG.

  Tôi có "thằng" cháu nội 18 tuổi đang đi học. Nó sinh ra và lớn lên ở Mỹ, cũng biết đọc, viết chữ Việt "chút chút". Một hôm, nó thấy tôi đọc tập thơ "Hoa Vông Vang" của Đổ Tốn. Nó hỏi tôi: "Ông nội đọc gì vậy? Tôi trả lời: "Ông đang đọc thơ Đường.” Nó ngạc nhiên và không hiểu thơ Đường là gì? Nó còn hỏi rằng có phaỉ thơ đó "ngọt" lắm  không. Tôi cười không trả lời. Sau đó, tôi gọi nó  đến và giải thích: "Thơ Đường là một thể thơ xuất phát từ đời nhà Đường bên Trung Hoa. Sau này cháu có cơ hội học hỏi sẽ hiểu.”

      Quan niệm về thơ của Nho Gia: "Tại Tâm vi chí. Phát ngôn vi thi. Thi ngôn chi”. Khổng Tử nói về Kinh Thi, đó là tập thơ cổ nhất được truyền lại. Thơ là cảm xúc chân thật, phát khởi từ lòng người (Lê Qúy Đôn).Tập thơ Ly Tao có một ảnh hưởng rất lớn trong làng thơ ở Trung Hoa và cả Việt Nam.
      Tại sao thơ ĐƯỜNG hưng thịnh ?
 Phải nói rằng xã hội đời Đường khá ổn định, tư tưởng cởi mở (theo lối quân chủ chuyên chế).Tam giáo đồng nguyên. Văn hóa phồn thịnh, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, thư pháp v.v. được giao lưu với khối A Rập, Ấn Độ.
     Cái cá thể, trong triết học nhân sinh Nho, Đạo, Phật được tôn trọng. Mỗi cộng đồng lẫn cá thể được tự do nói lên nỗi niềm tâm sự cá nhân hay tập thể của mình.
          -Thi là họa có lời.
          -Họa là thơ không lời.
          -Nhạc là chuyên chở ý của thơ và họa.
  Nguyên tắc cấu tạo thơ, ý, nhạc, họa v.v... là cấu tạo hình tượng thanh, biểu tượng của thơ, thi và ca.
     Tìm hiểu nguyên tắc câu tứ của thơ ĐƯỜNG  phải đi từ tâm thức truyền thống của người Trung Hoa. Họ cho rằng thơ là một "tôn giáo" (Lâm Ngữ Đường).
     Thơ đường cô đọng súc tích, giàu tính biểu tượng. Không chỉ do các thủ pháp nghệ thuật truyền thống tạo nên mà còn do một số nguyên tắc, biểu hiện, "thi luật" được coi trọng.
     Kinh Thi có thể nói là cội nguồn của thơ Trung Hoa. Thơ Trung Hoa đã có một quá trình chừng 2500 năm chưa hề dứt đoạn. Khỗng Tử đã dùng tập thơ này để dạy học trò. Khổng Tử nói: "Thơ có thể làm phấn khởi lòng người, giúp quan sát phong tục, hòa hợp với mọi người, có thể bày tỏ nỗi sầu oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại biết được nhiều tên chim muông, cây cỏ".
   {Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ủ điểu, thú thảo mộc chi danh}
    Nhận xét này nhằm vào tập Kinh Thi, nhưng cũng khởi đầu cho một quan niệm truyền thống về thơ của người Trung Hoa.
    Ở đây, có sự tương hợp giữa yêu cầu sự rung cảm nghệ thuật của cảm hứng, đạo đức và của cả ý thức  về trách nhiệm xã hội.   
     Từ Kinh Thi (TCN) đến Đường Thi (SCN), thơ ca đã trải qua một quá trình hàng chục thế kỷ để định hình về mặt thi pháp. Đến đời Hán (TCN) và (SCN), triều đình đã có sáng kiến lập ra Nhạc Phủ để sưu tầm thơ, ca dao dân ca v.v. nên chúng ta có được thêm sự nối tiếp truyền thống Kinh Thi. Sang đời Ngụy (SCN), ba cha con Tào Tháo , Tào Thực, Tào Phi với những vần thơ cứng cỏi, giàu chí khí, đã tạo nên một thời văn học Kiến An.
      Đến đời Đường, thơ ca cổ điển Trung Hoa đã bước lên đỉnh vinh quang. Thời Đường là thời đại hoàng kim của thơ ca với hơn 50.000 ngàn bài thơ của 2.300 thi nhân, Thơ Đường là tập đại thơ của thơ ca cổ điển. Đời Đường chia ra nhiều thời kỳ :
     -Sơ Đường(618-713).Tuy chưa xuất hiện đông đảo nhà thơ nhưng thơ của Vương Bột, Lạc Tân Vương, Dương Quýnh v.v. vẫn là những nhà thơ nổi tiếng được đời người sau nâng niu ưa chuộng.
    -Thịnh Đường (713-766). Thời này đã xuất hiện nhiều thi nhân nổi tiếng, không chỉ giàu số lượng, mà còn sung mãn về chất lượng. Với Thi Tiên Lý Bạch, Thi thánh Đổ Phủ, Thi Phật Vương Duy... là những người đã bước lên đỉnh cao danh vọng về thi ca.
     Lý Bạch với 2 câu :
            "Hứng lên bút, vung rung ngũ nhạc,
            "Thơ thành át sóng biển khơi".
    Ngoài ba vị ấy còn có Vương Xương Linh, Cao Thích, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên v.v.
         Bước sang thời kỳ 60 năm của Trung Đường. Có một số nhà thơ xoay "thời cuộc" dưới ngọn cờ :"Vị quân, vị dân nhi trước" của Bạch Cư Dị, tiếp nối ý tứ của Đổ Phủ. Nhưng thực ra thơ của ông chỉ nói đến những điều trái ngược "Duy ca dân sinh bệnh" đã định sẵn của ông. Bài "Tỳ bà hành" rất quen thuộc với người Việt Nam, qua bản dịch đầy tâm huyết của Phan Huy Thực, là một ví dụ tiêu biểu. Ngoài Bạch Cư Dị, Trung Đường còn có : Vi Ứng Vật, Lý Đoan, Liễu Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích ... cũng là những nhà thơ được người đời truyền tụng.
         Cuối Đường với 70 năm giai đoạn thơ  ca vãn Đường, bên cạnh những nhà thơ cảm thương uỷ mị như: Lý Thương Ẩn , Đổ Mục ... với hàng loạt nhà thơ: Bì Nhật Hưu, Nhiếp Di Trung, Đổ Tuân Hạc ... kiên trì xu hướng: Tân Nhạc Phủ.
      Sang Tống (960-1278), tuy thơ không bằng Đường nhưng cũng xuất hiện một biến thể mới của thơ đó là:TỪ. Đời Đường, Ngũ Đại các thi nhân có thói quen sáng tác lời thơ đưa cho kỹ nữ hát (Lý Bạch). Các bài thơ ấy phải viết theo quy định một nhạc phổ nhất định.Từ, là thơ viết theo một nhạc phổ quy định của làn điệu âm nhạc, người ta gọi là điển Từ khác với Tác. Đời Tống thịnh về Từ, nhưng ít thành tựu. Người ta không tìm thấy cái mông lung huyền ảo của thơ Đường trong thơ Tống, cũng không tìm thấy thơ về tình yêu trai gái sôi nổi trong thơ Tống. Nhưng thơ Tống có những thi nhân nổi tiếng cả về Từ và Thơ như: Tô Đông Pha, Lục Du. Tô Đông Pha là một vị quan nổi tiếng vì dân, mà cũng là một nhà thơ nối tiếp Bạch Cư Dị. Bài "Lệ chi thán" là một ví dụ. Còn  Lục Du thì đời quá lận đận, tuy nhiên ông vẫn sáng tác rất nhiều bài thơ hay, có một số lượng kỷ lục. Bài "Thi nhi" rất nổi tiếng.
       Nhà thơ Lý Bạch đôi lúc cảm thấy cô đơn da diết khi bị ruồng bỏ nhưng ông vẫn tin tưởng "Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng". Tất cả những trạng thái tâm hồn đó có liên quan đến tư tưởng triết học truyền thống của người Trung Hoa.
      Thơ Đường, thơ của thời kỳ "Tam giáo đồng nguyên", thấm nhuần cả ba cảm hứng Nho, Đạo, Phật.
      Lý Bạch rõ ràng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Đạo Gia .Vương Duy là đại diện cho của nhân tố Phật và Lão.
       Bạch Cư Dị, Đổ Phủ lấy mặt tích cực của tư tưởng Nho Gia làm nền tảng. Hàn Dũ cách tân cổ văn cũng lấy tư tưởng Nho Gia làm đầu.
     Thơ cổ Trung Hoa có ảnh hưởng sâu xa đối với thơ Việt nam. Những nhà nho Việt Nam cũng đã đem Kinh Thi ra để dạy học trò. Người ta vẫn ngâm "Ly Tao của Khuất Nguyên” (mồng 5 tháng 5 AL vẫn nhớ ngày),  Đào Tiềm thì đã đi vào tiềm thức của nhiều người yêu thơ.
     Bài "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu có hơn chục bản dịch khác nhau. Người Việt vẫn luôn luôn mê thơ Đường, dịch thơ Đường, mượn nó để gửi gắm buồn, vui của chính mình.
     Có điều lý thú là, thơ Đường đọc theo âm Hán Việt nó lại hay hơn, đúng luật hơn, có  âm vang hơn đọc theo  âm Hán. Bởi vậy, có thể nói đến một sự tái sinh của thơ Đường qua tâm huyết của các nhà thơ Việt Nam.
      Ngô Thời Nhiệm, một thời đã nói :"Nước Việt Nam ta lấy văn hiến để dựng nước, thi ca thai nghén từ đời Lý, thịnh vượng ở đời Trần, rầm rộ ở thời Hồng Đức triều Lê. Một bộ "Toàn Việt thi lục" về cổ thể thi không chịu nhường thi ca đời Đường, Tống, Nguyên, Minh. v.v. Thi ca Việt Nam vẫn nhả ngọc phun châu vậy
      Thật đúng là "Thi ca chi bang". Vượt qua bến bờ của Trình Hạo, Chu Huy, lên trên cả Khuất Nguyên, Tống Ngọc, đi vào cung thất Y Doãn, Chu Hán và ra khỏi con đường của Lý Bạch, Đổ Phủ.
         "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán
         "Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường"
     Vì vậy, có thể tìm thấy thơ Đường trong phong trào thơ mới (1932-9945), trong thi nhân VN (của Hoài Thanh).
   
        Xưa nay "Tao nhân mặc khách". Nếu quý vị đọc "Văn Đàn bữu giám" hay "Giai thoại làng nho" của Việt Nam thì qúy vị sẽ tìm thấy  không thiếu gì những bài thơ tuyệt vời và âm hưởng tràn đầy thú vị. Thơ đi vào lòng người, tùy tâm, tùy tính, tùy cảnh, ảnh hưởng cả không gian lẫn thời gian để cảm nhận bài thơ thấm thúy vào tâm khảm.
            Thơ không bao giờ thiếu, tâm không bao giờ thừa. Tâm đầy thì thơ thánh thót, âm điệu bao la và thoát ra khỏi cái dung tục của cuộc đời đầy  ô trọc.
                                                        
LÊ  HOÀNG


Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

CHỮ TÂM TRONG PHẬP GIÁO - Lê Hoàng



    
         Học Phật Pháp mình cần phải có cái TÂM chân thật, nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hạnh đều phải chân thật. Kẻ thế tục thường hay một nửa chân, một nửa giả. Nói năng lúc thì có chút thiệt thà; lúc thì đầy giả dối. Người tu đạo lúc nào cũng phải nói thiệt, làm chuyện thiệt; không được nói láo. Mỗi một ý niệm, phải bỏ đi điều lỗi lầm, trừ cái tập khí trong vô lượng kiếp và rán cải đổi nó đi. Cái tội lỗi mình đã làm trong vô lượng kiếp phải sám hối cho hết sạch. Tại sao có kẻ học Phật lâu năm như vậy mà không có một chút linh ứng nào cả ? Bởi vì mình còn bao che cái lỗi lầm của mình, không chịu đem tâm chân thật ra mà tu hành. Cho nên thời gian trôi qua uổng phí mà mình không khai được trí huệ chân chính, không được định lực chân chính. Thời gian trôi qua oan uổng mà mình đạo nghiệp chẳng được thành tựu, đó là điều thật đáng tiếc thay.
      Tu hành sống trong chùa người tu hành cần phải tiết kiệm tất cả những thứ vật chất. Người ta nói rằng: "Ái tích thường trụ vật, như hộ nhân trung châu". Có nghĩa là: Mình quý cái vật thường trụ giống như thử là mình bảo vệ con ngươi trong mắt mình vậy. Đồ vật của chùa như : Gạo, muối, tương, chao v.v... mình đều phải qúy nó, không được lãng phí bừa bãi. Cho đến những cái mà mình dùng, ngọn cỏ, cành cây v.v... đều là qúy cả. Nếu ở cái chỗ nầy mà không cẩn thận chẳng biết tiếc cái phước của mình thì mình làm tiêu hao công đức biết bao. Cho nên cái điều mình tu không bằng cái tội nghiệp mình tạo; cái điều mình đắc không bằng cái điều mình khuyết. Thêm một điều nữa là nhất cử nhất động, nhất ngôn, nhất hạnh mình cần phải không được tổn hại đến người khác. Khi nói thì phải dùng lời lẻ đức độ, không được nói ỹ ngữ, lời thêu dệt, lời dối trá, lời ác ôn, hay lời hai đẵng. Cái miệng là cái mình cần chú ý đặc biệt; thân thì không được sát sinh, không được trộm cắp, không được tà dâm, ý thì không được phạm tham, sân, si. Đừng nên coi trọng tấm thân thịt da trần ai nầy lắm, mỗi tâm, mỗi niệm đừng để bản thân thịt da quá thụ hưởng, quá khoái lạc, đó là điều điên đảo. Nên nghĩ làm sao để xuất ly sáu cảnh giới (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A Tu la, người và trời) luân hồi nầy, làm sao cải biến sửa đổi tập khí của mình, làm sao mà cái tình ái của mình hết đi, không còn nữa thì lúc đó mình mới toại tâm mãn nguyện thành tựu cái đạo quả Bồ ĐỀ được.
       Ngày trước, do tu vô lượng, vô biên công đức, nên Phật mới thành PHẬT được. Chúng ta tại sao chưa thành Phật? Là vì chúng ta chưa tu vô lượng vô biên công đức. Công đức của mình so với ngài qúa chừng sai lệch. Con người chúng ta trong cõi đời này, từ sáng đến tối mình đều tạo thân nghiệp, tạo khẩu nghiệp, tạo ý nghiệp. Hãy xét thử, chúng ta cứ tưởng: Người này không tốt, người kia đối với mình không đẹp, tưởng người nọ đối với mình như vậy, như kia v.v... trong đầu óc bao giờ cũng quanh quẩn những tạp niệm nhức đầu. Có một ngày không nói chuyện thị phi thì giống như một ngày họ mất lẻ sống vậy. Một ngày không nói láo, giống như họ không có cơm ăn, aó mặc, họ cảm thấy rất khó chịu. Cái đeo mặt nạ giả để đi lừa người khác, kỳ thật ở đời này mình lừa được ai! Chẳng những mình không lừa được người khác, mà chính mình tự lừa dối mình. Cho nên chỉ có người ngu si mới đi lừa người khác thôi. Người không thực lòng, không có nhân đức thì lòng dạ đen tối, không giữ quy luật chẳng làm được chuyện quang minh chính đại. Do đó trong sự sinh hoạt hằng ngày giống như kẻ say rượu "Túy sinh, mộng tử", sinh ra trong say đắm, chết trong mộng mị vậy.
       Quan niệm của đạo Phật lấy chữ TÂM để giảng pháp. Cho nên, trong kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng:"Phật thị hiện bách, thiên ức chũng âm thanh. Vị chúng sanh, diển thuyết diệu pháp". Có nghĩa: "Phật thị hiện trăm ngàn ức để diển pháp mầu cho chúng sinh "
      Nên chúng ta cần giác ngộ và nghĩ rằng tất cả các âm thanh trên thế giới tất cả đều là tiếng thuyết pháp của Phật. Cho nên nói rằng: "Khe thanh vô quảng trường thiệt,sơn sắc vô phi thanh tịnh thân" Có nghĩa âm thanh  của con suối, con lạch đều là tiếng từ nơi  lưởi rộng dài của đức Phật. Màu sắc của núi không có màu nào chẵng là màu của thanh tịnh pháp thân. Tiếng suối reo, tiếng nước chảy cũng giống như là lời Phật nói diệu Pháp, cái màu sắc xanh của núi cũng là màu của pháp thân khiến kẻ trông thấy sinh lòng hoan hỷ. Nếu hiểu được cái triết lý này thì trên đời, tất cả mọi thứ đều đang nói Pháp cho mình nghe. Người thiện thì nói Pháp thiện, người ác thì nói cái Pháp ác. Con ngựa thì nói Pháp làm ngựa, con trâu thì nói Pháp làm trâu. Nhân duyên nào mà chúng phải làm như vậy. Bởi vì con ngựa hồi xưa, lúc sống nó không hiếu thảo với cha mẹ, cũng không cung kính với các bậc thầy của nó v.v. nên giờ nó phải sinh ra loài súc vật. Nói tóm lại, trì ngũ giới, hành thập thiện thì  mình sinh ra làm người, làm trời. Khi có tham sân, si thì mình đọa ba nẽo ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cho nên, mọi thứ đều là nhân quả tuần hoàn báo ứng cả. Đó là đạo lý tuần hoàn thiết thực vô cùng.
            "Thanh thanh bích trúc tổng thị pháp thân"
            "Uất uất hoàng hoa vô phi bát nhã"
      Tạm dịch: Xanh xanh trúc biếc đều lộ pháp thân,
                       Lấp lánh cúc vàng không chẵng bát nhã.
      Cho nên, mình phải hiểu thấu đáo chữ Tâm, quan sát cụ thể. Hể hiểu thì có thể buông mọi thứ. Chưa hiểu thì mãi chấp trước.
       Trong chữ TÂM của Phập giáo có thể vượt ra khỏi số mạng!
       Câu chuyện kể rằng: "Khi xưa có một vị họ Viên hiệu Liễu Phàm tên Học Hải, là một danh nho đời nhà Minh, lúc nhỏ chàng hay đọc sách, nhưng phụ thân muốn chàng học nghề thuốc để tế thế cứu người, cho nên chàng liền cải đổi học ngành Y. Về sau, một ngày nọ, chàng gặp một vị tướng số râu dài, nói với chàng rằng "Ngài có mạng làm quan, ngài nên đọc sách để làm quan lớn, vào ngày đó... tháng đó ... thì ngài sẻ đậu tú tài, năm đó ... tháng đó ... thì ngài sẽ làm quan huyện ... bổng lộc đến với ngài rất nhiều. Và cứ thế ngài sẽ được thăng cấp cao ... cho đến năm ngài 54 tuổi ngày 14 tháng 8, đêm nằm ngài sẽ mệnh chung. Suốt đời ngài không có con cái nào cả.
       Do vậy, nên Viên Học Hãi mới đổi môn học, thì qủa đúng như vậy, đúng như lời toán số của vị tướng số. Bởi vì vận mệnh đã an bài cho nên chàng chỉ chờ đợi sự an bài mà không còn nghĩ gì khác nữa. Suốt ngày chỉ du sơn ngoạn thủy mà thôi. Một bữa nọ chàng tới núi Thê Hà, tại đó có một vị thiền sư tên là Vân Cốc. Khi chàng tới bái kiến vị thiền sư này, thiền sư Vân Cốc liền đưa cho chàng một bồ đoàn. Hai người ngồi đối diện như vậy suốt ba ngày đêm, thiền sư cảm thấy rất kỳ lạ hỏi rằng :"Ngài từ đâu đến? Có thể ngồi ba ngày ba đêm bất động chẳng có vọng tưởng, hẳn rằng ngài là một vị kỳ nhân có tu đạo ?" Họ Viên đáp: "Bởi vì, tất cả mọi sự đều do vận mệnh an bài, nên tôi chẵng tham, chẳng cầu, chẳng có vọng tưởng gì cả."
      Vị thiền sư nghe và trả lời: "Tôi tưởng ngài là một bậc phi thường, nhưng hóa ra ngài cũng chỉ là kẻ phàm phu tục  tữ." Họ Viên nghe thế, mới hỏi lại thiền sư : "Sao thiền sư cho tôi chỉ là kẻ phàm phu tục tữ?"
      -"Nếu không phàm phu tục tữ, thì tại sao bị cái vận mênh kia trói buộc ?"
      Họ Viên liền hỏi : "Thưa thiền sư vận mệnh trốn thoát được chăng ?"
      Thiền sư đáp :"Ngài là kẻ thư sinh chuyên đọc sách thánh hiền ngài không biết trong kinh Dịch có câu nói rất rõ ... "Thú kiết kỵ hung .".."nghĩa là tới chỗ tốt, tránh chỗ xấu." Nếu mà số mạng không trốn được thì làm sao nói vậy được? Thú kiết: có nghĩa là đạt tới điều kiết tường, tỵ hung. Có nghĩa là trốn khỏi điều hung dữ. Họ Viên nghe thấy tĩnh ngộ. Lập tức đổi tên mình thành Liễu Phàm (Không còn kẻ phàm phu nữa) luôn làm việc thiện, tích phước tích đức, khiến cho điều vị tướng số nói không còn linh nữa. Viên Liễu Phàm sống đến hơn 85 tuổi, có 3 đứa con.
       Bởi vậy, vận mệnh không phải là nhất định, tốt, xấu, kiết hung cũng không phải nhất định. Cho nên cổ nhân nói rằng "Quân tử tạo mệnh". Người có đạo đức, chính nhân quân tử thì có thể cải tạo được vận mệnh của mình, siêu xuất khỏi cái số mệnh.

                                                              Lê  Hoàng
lehoang32@ymail.com
Nguyên quán: Mai Đàn, Hải Lâm, Hải Lăng, Quảng Tr

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

HOA XUÂN - Tản văn của LÊ HOÀNG

Hoa đào Đà Lạt
                                                                          
                           
                             “Khứ niên kim nhật thử môn trung,
                              Nhân diện đào hoa tương ánh hồng,
                              Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
                              Đào hoa y cựu tiếu đông phong.”
        Thôi Hộ nhìn người đẹp, có gương mặt rạng rỡ như hoa đào nên đặt tên một loài hoa là "Nhân diện đào hoa".
        Có rất nhiều loại hoa trên thế giới. Hoa mọc khắp mọi nơi. Hoa thiên nhiên, hoa do con người trồng. Hoa trên cành, hoa trên vách đá, vách núi, hoa trên đất và hoa mọc cả dưới lòng sông, lòng biển.
        Hoa nở giờ giấc cũng khác nhau. Có hoa nở ban ngày, có hoa nở về đêm, hoa mười giờ v.v...
        Hoa dùng để tô điểm cho cuộc đời thêm tươi sáng và hoa làm đẹp cả lòng người.
        Tục xưa tin rằng hoa Đào trừ được ma quỷ do tích cũ của hai vị thần Uất Lũy và Thần Trà .
        Hoa Đào luôn đem lại cho mọi người những ý tưởng tốt lành giấc mơ đẹp. Hoa làm đẹp cho phòng khách và hoa Đào, hoa Mai nở cho ta thấy mùa Xuân đang đến.
        Hoa Đào có rất nhiều giống như: Oan ương đào,Thọ tinh đào, Thủy tinh đào, Nhật nguyệt đào, Mỹ nhân đào và Nhân diện đào.
       Ở Đà Lạt, trên núi Lang Biang (Lâm Viên) còn có hoa Đào dại mọc hoang trong rừng. Cứ mổi năm đến độ gần Tết hoa Đào lại nở rộ báo hiệu Tết sắp đến. Cây anh đào mang đặc tính của thực vật miền ôn đới mùa Thu, cây trút lá bắt đầu nghỉ đông, cây trơ lại cành. Hoa Anh Đào ở Đà Lạt khác với hoa Anh Đào ở Nhật Bản. Nó có tên: Prunus Cerasoides, hoa có 5 cánh đơn giống như hoa Mai (Creasus).


Hoa Phong Lữ

       Ở Đà Lạt còn có hoa Cúc nở quanh năm. Có tất cả trên 20 thứ Cúc khác nhau như: Sans-souci (Không ưu phiền), Hortcusia (hoa Cẩm tú ), Pense'e (hoa Học trò), Oeillet (Cẩm chướng), Cosmos (Bươm bướm), Violette (hoa Tím), Immortelle (hoa Bất tử ), Arum (hoa Cuốn kèn) .v.v... Có một ít loài hoa có nguồn gốc từ Mể Tây Cơ, Bắc Mỹ, Châu Phi, Châu Âu. Khi du nhập vào Việt Nam lại có tên Việt như :Hoàng Anh (Verge d'or), Thược Dược (Dahhia), Thu Hải Đường (Begonia rex), Dạ Hợp (Maguelia), Mỏm Sói (Gueule de loup), hoa Lồng đèn ( Fuchsia), Phong Lữ (Geranium), Xác Pháo (Sauge Eclatante ), Sen đá (Joubrabe des toits), Sen cạn (Capucine).
     Người ta phân tích hoa rất nhiều loại. Nếu tính ra thì trên thế giới có hơn cả một trăm ngàn loại hoa, chúng ta không thể biết để kể ra cho hết được.

   1/ Vương Giả Chi Hoa:
Lan Phi Điệp vàng

        a/ Hoa Lan: được ban tặng "Vương giả chi hoa" tức là chúa các loài hoa.
            Phong Lan: Bám vào cây khác để sống.
            Thạch Lan: Lan bám vào vách đá, núi cao để sống.
            Lan địa sinh: Mọc trên lá và đất bùn.
            Lan hoại sinh: Có rất ít hoặc không có diệp lục tố và mọc trên hoại thể thực vật khác. Ở Việt Nam (rừng Cúc Phương) có Lan gót tiên. Mặt trong hoa màu hồng, mặt ngoài có chấm màu tía.
            Phi điệp kép: Hoa to rất đẹp, màu hồng, họng hoa điểm màu tía, mọc thành từng chùm.

        b/ Hoa Huệ : Bao hoa hình phểu, màu trắng nở 4 mùa huơng thơm tỏa thơm ngát về đêm, rất dể chịu. Hoa này ở Á Châu phần nhiều chỉ dùng cho tang lễ, cúng kiến hay trong chùa, nhà thờ. Tuyệt đối không tặng nhau hoa Huệ.
                  " Huệ, Lan sực nức một nhà,
                    Tình cay đắng, lại mặn mà hơn xưa"

Hoa Mẫu Đơn Trung Quốc

        c/ Hoa Mẫu Đơn: Một lòai hoa đẹp, to bằng cái chén  có 4 màu: trắng, đỏ, vàng, tía. Ở Trung Quốc thời xưa họ Diên trồng được hoa màu vàng nên gọi Huệ "Diên Hoàng". Còn họ Ngụy trồng được hoa màu tiá thì goi là "Ngụy Tử "
            Người thời xưa rất qúy hoa mẫu đơn, nên gọi là "Vương Hoa" hay có nơi gọi là "Phú Qúy Hoa" để chỉ sự giàu sang.
                 "Thược Dược khó mươi phần tươi tốt,
                   Mẫu đơn khoe hết lực giàu sang ." (Ng.H.)
            Mẫu đơn còn tượng trưng cho người con gái đẹp" Quốc sắc thiên hương "
                 "Đã nên quốc sắc thiên hương ,
                   Nụ cười này hẵn, ngàn vàng chẳng ngoa."
    Cho nên truyền thuyết vua Minh Hoàng đời Đường có lập một cái vườn Thượng Uyển ngày đêm vua cùng Dương Qúy Phi thưởng thức hoa Mẫu Đơn.
                  "Mây mưa mấy giọt chung tình,
                   Đình trầm hương, khóa một cành Mẫu Đơn." (NG.G.TH.)
         
   2/ Phú Hào Chi Hoa:

Hoa Tường Vy (Hồng Huế)
                a/ Hoa Hồng: Là một loại hoa đẹp, ngát hương, được nhiều người ưa chuộng. Hoa Hồng có 26 giống chính và người ta đã lai tạo ra được trên sáu ngàn loại hoa Hồng. Hoa Hồng còn được mệnh danh là "Hoàng hậu của các loài hoa". Hồng, nhưng có nhiều màu: Hồng, trắng, vàng, đỏ, đỏ sậm. Hồng cũng còn có loại to, nhỏ khác nhau. Hồng Huế, hay còn gọi là Tường Vi, Hồng Tỷ muội v.v...
             Người Châu Âu cho loài hoa Hồng đẹp hơn cả, có nhiều tác phẩm ca ngợi hoa Hồng ở châu Âu. Có trường hợp ở nước Anh hồi thế kỷ 15 đã xẩy ra cuộc chiến gọi là "Cuộc chiến hoa Hồng" tranh dành ngôi vua giữa hai dòng họ Landcaster và York .
             Còn phương Đông cho hoa Hồng là lẳng lơ (Liễu ngỏ hoa tường), ví như con gái phận bạc như hoa hồng vậy.
              "Em nay là khách sang sông,
                Hoa mùi ấm cội, hoa hồng say sưa."

             b/Hoa Mai: Có hai loại hoa Mai: Hoa mai Vàng, và hoa Mai trắng. Các thi sỉ thường cho hoa Mai là hoa khôi vì nó nở vào dịp TẾT về . Mai vàng thuộc họ "Lão Mai." Hoa Mai trắng thuộc họ "Phụ Mận"

         c/ Hoa Cúc : Những giống Cúc được trồng phổ biến là Cúc vàng có hoa to cánh mềm, màu vàng rực rỡ. Cúc có Cúc Hoàng Kim, Cúc Đại Đóa. Hoa Cúc tỏa hương thơm dịu.
       Đức Khổng Tử đả đặt cho danh hiệu "Niềm vinh quang của mùa thu" cách đây hơn 500 năm. Người Nhật coi Cúc là người bạn tâm tình. Còn Thụy Sỉ, Bỉ thì dùng hoa Cúc để viếng mộ.
                 "Nét buồn như màu Cúc, điệu gầy như Mai".

    3/ Quân Tử Chi Hoa: Hoa Sen.

           Hoa sen có hương thơm ngát và dáng đẹp. Người Việt Nam chúng ta coi sen là biểu tượng của người quân tử. Hoa sen còn  chưng nhiều ở các lể của các chùa chiền và gia đình Phật Giáo.Tượng trưng cho sự thanh cao, thanh khiết, sự trong sáng của tâm hồn.
                "Trong đầm gì đẹp bằng sen,
                  Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng".
      Người quân tử có tính khí khác thường, lấy lượng rộng để cư xử với mọi người trong xả hội, nên có câu :
                "Người quân tử khách hồng nhan,
                  Càng khôn, càng rộng, tao đoan càng dài ".

   4/ Bình dân chi hoa: Hoa vạn thọ.



            Hoa vạn thọ có nhiều lọai hoa. Loại cây cao, hoa to, màu vàng, màu đỏ, còn có loại cây thấp hoa màu vàng, giống lùn, hoa nhỏ có viền cánh hoa màu đỏ. Cùng họ có hoa Mồng gà, Hoa nở ngày
           Ba loại hoa trên được gọi là hoa Bình dân. Hay Bình dân chi hoa. Người ta ưa dùng trong những ngày Lễ, Tết, Hội v.v...
           Nói đến hoa thì không thể nói hết. Những người con gái cười tươi như hoa, đó là những hoa biết nói, hoa này thì cũng biết bao văn, thơ thi sỉ, nhạc sỉ diễn tả qua bao hình thức nội dung để ca ngợi cái vẻ đẹp muôn thuở của người con gái.
               "Đưa em lên vùng hoa Anh đào,
                Trời mùa Đông, Đà Lạt ở trên cao,
                Em khép nép vào vai anh ru giấc mộng,
                Biến yêu thương thành nắng ấm cõi lòng.
                                                                 *   
                                                              *      *
                Ối! Đà Lạt ngàn hoa vươn sức sống,
                Kim, dáng gầy, anh ôm trọn đầy tay.
                Tìm một cỏi yêu thương mình  chợt thấy,
                Em ơi em, kiếp này có đọa đầy,
                Anh vẩn nói, yêu em trọn vòng tay.”
                                                                          
                                                  Lê Hoàng
                                                                           lehoang32@ymail.com

HOÀI VỌNG - Thơ: Hạ Trắng - Nhạc: Lê Hoàng - Phối âm & trình bày: Anh Nguyên




LÊ HOÀNG 
lehoang32@ymail.com