Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Kỷ Sửu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phan Kỷ Sửu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013

NHÂN GIỔ TỔ HÙNG VƯƠNG (MỒNG 10 THÁNG 3 ÂL HẰNG NĂM), VIẾNG BÁO QUỐC TỪ: NƠI TÍN ĐỒ CAO ĐÀI TÂY NINH TÔN THỜ QUỐC TỔ - Phan Kỷ Sửu


 
Ở Tây Ninh, Báo Quốc Từ là đền thờ duy nhất mà Hội Thánh và tín đồ Cao Đài tôn thờ Quốc Tổ Hùng Vương. Ngày mùng Mười tháng Ba hằng năm đồng hành cùng cả nước, lễ Giỗ Vua Hùng được tổ chức trọng thể tại đây theo nghi thức tôn giáo Cao Đài do Họ đạo Thị trấn Hòa Thành và xã Long Thành Bắc thực hiện, thu hút khá đông đảo đồng bào cả giáo lẩn lương về dự. Về nơi đây, mọi người đều mang chung một tâm trạng nôn nao, một cảm giác xúc động chan hòa như hành hương về với cội nguồn của dân tộc, về với ngôi Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, thành phố Việt Trì (Phú Thọ) đang  tưng bừng lễ hội…

Trong tâm thức của người Việt từ bao đời, ngày Giỗ Tổ đã trở nên hết sức thiêng liêng: “Dù ai đi ngược về xuôi / Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba”, tưởng nhớ mười tám đời Vua Hùng có công dựng nước, đã trở thành một niềm tin tuyệt đối và không thể thay đổi. Chim có tổ, người có tông, bài học đầu đời ngày thơ ấu là truyển thuyết mẹ Âu Cơ lấy Lạc Long Quân sinh một bọc trăm trứng, nở ra trăm con, sau đấy, 50 con theo cha xuống biển, 50 con theo mẹ lên non… Truyền thuyết ấy đã thắm sâu vào từng mạch máu Việt Nam, để ai cũng có chung một niềm tự hào là con cháu Rồng Tiên.

Báo Quốc Từ (A. The Nationnal Pantheon. P. Le Panthéon national) có nghĩa là một đền thờ những danh nhân lịch sử, những người có công lớn với nước với  dân, những anh hùng, liệt sĩ đã hi sinh trong các cuộc kháng chiến chính nghĩa để bảo vệ độc lập, tự do cho tổ quốc.

Sau khi đạo Cao Đài được thành lập vào ngày 25-10 Bính Dần (1926) và công trình xây dựng Tòa thánh Tây Ninh (khởi công 1933) chính thức hoàn thành vào tháng Giêng năm 1955 thì Hội Thánh khởi công xây dựng Báo Quốc Từ theo sáng kiến của chính Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Công trình được xây dựng giữa một đoạn đường khá rộng như một quảng trường nay thuộc đường Hùng Vương, Thị trấn Hòa Thành (h. Hòa Thành).

Với chiều cao 6,5m , mỗi cạnh 4m với hàng rào kiên ố xung quanh, Báo Quốc Từ là một kiến trúc hình lục giác khá độc đáo, vừa  đậm đà tính dân tộc, vừa phảng phất tính hiện đại mới mẻ, được khánh thành vào ngày 16/8 Ất Mùi (01-10-1955).

Ở hai bên cổng trước có hai câu đối của cụ Hiến Pháp Trương Hữu Đức, một trong Thập Nhị Thời quân được chạm nổi:

-BẢO THỦ CƠ  ĐỒ ANH HÙNG DƯƠNG KHÍ PHÁCH.

-HỘ TRÌ QUỐC VẬN CHÍ SĨ HIỂN UY LINH.

(Gìn giữ cơ đồ đấng anh hùng nêu cao khí phách.
Hộ trì vận nước, bậc chí sĩ hiển lộ oai linh)

Phía trong ngôi đền, Quốc Tổ Hùng Vương được thờ trang trọng tại bàn thờ chính cùng các vị công thần, các anh hùng, liệt sĩ đã hi sinh vì tổ quốc và nhân dân trong các cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc. Bên cạnh đó có linh vị và hình ảnh của các vị vua yêu nước nhà Nguyễn (Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân), thể hiện sinh động ý chí chống thực dân Pháp.

Bài vị  được  thờ viết theo chữ Hán:

Chữ lớn hàng giữa: HÙNG VƯƠNG QUÂN CHI THỈ
Hàng bên trái: CHIẾN SĨ TRẬN VONG
Hàng bên phải : CỨU QUỐC CÔNG THẦN 


Phía sau đền thờ  có một bàn thờ chiến sĩ trận vong có hàng chữ Vị Quốc Vong Thân, phía trên có quốc kỳ Việt Namđỏ thắm.

Trong dịp trùng tu và thiết lập hàng rào bao quanh Báo Quốc Từ và khánh thành ngày 20-10 Bính Ngọ (01-12-1966), cụ Bảo Thế  Lê Thiện Phước có đọc diển văn, khẳng định rõ nét việc hình thành ngôi đền nầy:

“Người Việt chúng ta tự ngàn xưa đã chất chứa trong cõi lòng một nguồn tri ân nồng hậu đối với những nhân vật nào, dầu xa dầu gần, bất luận người bổn xứ hay khách ngoại bang, đã chơn thành hi sinh tấm thân trần cấu giúp hộ cho quốc dân ta, tạo dựng một uy lực hùng cường trong quốc nội hay lập nên một ngôi thứ gì trong vạn chủng. Tính giao hảo giữa người thi ân và kẻ thọ ân bắt buộc như thế…”

Trong nghi thức Giổ Tổ hàng năm tại đây cũng có một bài kinh xưng tụng công đức của các anh linh được đồng đạo tôn thờ. Trong đó có những câu

“Bốn ngàn năm quốc gia đã lập
Cõi năm châu bồi đắp giang sơn
Trụ tâm nâng đở quốc hồn
Giữ bền đảnh nghiệp vĩnh tồn hậu lai…”

Theo những người am hiểu về nguồn gốc của ngôi đền nầy cho biết, sở dĩ ngôi đền được xây dựng ở một vị trí khá đặc biệt là ở giữa đường không bên trái, không bên phải cũng không phải ở cuối đường hay đầu đường có ý nghĩa sự nghiệp của các tiên vương, các vị anh hùng vị quốc vong thân vẫn còn dang dở, cần có sự kế tục của các thế hệ hậu sinh. Với ý nghĩa tốt đẹp như vậy, Báo Quốc Từ nhìn từ xa như một đài sen luôn toát lên vẻ đẹp của con người Việt Nam, của tín đồ Cao Đài vốn tôn trong và gìn giữ muôn đời đạo lý ‘uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.

                                                                          PHAN KỶ SỬU
                                                                      Ảnh: Nguyễn Cảnh



TƯỞNG NHỚ VUA HÙNG

 (Họa vận “Nhớ ơn Quốc Tổ của TH Phạm Quang Vinh)


Tưởng nhớ Hùng Vương, con một nhà
Chung lòng quyết tiếp bước ông, cha
Vung  thanh gươm thép ngăn mưu giặc
Phất ngọn cờ đào vững chí ta
Thẳng hướng tương lai, nhanh bước tiến
Xây nền ước vọng rạng mùa hoa
Giống rồng tiên  nối  vòng tay lớn
Lịch sử ngời thêm nét đậm đà


                      Vân Trinh  PHAN KỶ SỬU

                                (Tây Ninh)





Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

VĨNH BIỆT NSUT HỒ KIỂNG, MỖT DIỄN VIÊN TÀI HOA CỦA ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM - Phan Kỷ Sửu

NSUT Hồ Kiểng

     Đành rằng sự  kết thúc của một đời người đã là một quy luật tất nhiên của muôn đời trong cái vòng “tứ khổ” của kiếp phù sinh, nhưng khi được hung tin NSUT Hồ Kiểng vừa đột ngột qua đời ở tuổi 87 vào lúc 16h15 ngày 3/4/2013 trên xe cấp cứu  từ nhà riêng - chung cư Cao Thắng (Q.3 TP.HCM) đến Bệnh viện Nguyễn Trải, sau khi ông bị ngã do bệnh tim tái phát, thật tôi không khỏi bàng hoàng như tâm trạng của đông đảo đồng nghiệp, bạn bè và khán giả ái mộ ông.

Gần 30 năm qua, tôi là một trong nhiều người bạn Tây Ninh của ông. Tôi quen biết Hổ Kiểng từ những năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước qua nhiều lần tham gia sinh họat tại  CLB Thơ văn Quận 3.
 
NSUT Hồ Kiểng sinh ngày 27/12/1925 tại Phước Long, Giồng Trôm (Bến Tre). Ông tham gia Cách mạng từ những ngày tháng Tám năm 1945 ở tiểu đòan 209. Tham gia họat động điện ảnh từ năm 1959. Cho đến nay ông đã tham gia hơn 200 phim trong thời gian gần 55 năm với các vai diễn dù chỉ là vai phụ nhưng lại tạo được nhiều ấn tượng đối với khán giả, đặc biết nhất là ở các phim Đất Phương Nam, Người đẹp Tây Đô, Hòn Đất, Ván Bài lật ngửa… Ông thường chuyên trị các vai từ phản diện đến chính diện. Bộ phim cuối cùng đang phát trên VTV1 Mùa hè lạnh đã đánh dấu một vai diễn lớn đầu tiên trong đời của ông, một đại gia người Hoa bên cạnh diễn viên trẻ đẹp Lý Nhã Kỳ. Bên cạnh đóng phim, Hồ Kiểng còn là tác giả của 12 tuồng cả lương, 50  vở kịch nói, hàng trăm vở kịch truyền thanh cùng hàng trăm bài thơ nhiều thể lọai và bài ca vọng cổ.
  
Hồ Kiểng nhìn chung là một con người tài hoa, có tác phong lao động nghệ thuật nghiêm túc, mãi mãi thể  hiện thật tốt trách nhiệm của một nghệ sỹ chân chính.Tám năm qua, ông sống bằng một trái tim nhân tạo trong người, với một cuộc sống thật đạm bạc. Thế nhưng niềm đam mê nghệ thuật điện ảnh luôn sôi động trong ông. Cách sống của ông luôn luôn là một mẫu mực soi đường cho các đồng nghiệp hậu sinh.
  
Giữa thập niên 1980, ông về Tây Ninh tham gia bộ phim truyện “Đường về của mẹ” tại Khách sạn Hòa Bình trong vai một tên Đại úy Cảnh Sát Sài Gòn. Ông đã tranh thủ thời gian nghỉ ngơi và tâm sự rất say sưa với tôi xoay quanh niềm đam mê nghệ thuật của ông, khi ấy ông mặc nguyên y phục của diễn viên. Sau đó ông thường đi bộ dến đài PT Tây Ninh tìm tôi. Mỗi lần gặp gở, ông nói chuyện rất rôm rả. Tôi cũng nhiều lần về Sài Gòn và đến nhà riêng thăm ông. Nhìn cảnh sống của ông trong một căn phòng chât chội, nóng bức, tôi không khỏi xót xa!
  
Tháng 3/1990, Nhà Văn hóa Trung tâm Tây Ninh tổ chức cuộc thi  sáng tác thơ Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói đây là cuộc thi thơ đầu tiên tại Tây Ninh từ sau ngày 30/4/1975 có sự tham gia  vào Ban Giám khào của các nhà thơ từ TP.HCM như Kiên Giang,Tôn Nữ Trà Mi ... cùng cụ Hi Đạm (Tây Ninh). Nhân dịp này, ông Hồ Kiểng cũng có gửi bài về tham gia và đạt giải B (không có giải nhất) với bài thơ  “Trở lại quê cha” và giải C với bài thơ Soi gương Người.
   
Hôm tổng kết cuộc thi, ông Hồ Kiểng có đến và góp vui với nhiều bài vè duyên dáng do chính ông sáng tác như Vè các loại cà, các lọai bánh…
   
Sau đó ông tham gia bộ phim Đêm săn bạc tại Đồng Nai trong vai một người bắt rắn. Không may con rắn hổ mang to tướng cùng “đóng phim” với ông đột ngột tấn công ông dù nó đã bị khóa mỏ bằng dây kẻm khi ông chuẩn bị bắt nó… Một cọng kẻm ngắn chạm vào  bàn tay ông đã làm ông chết lâm sàn trong Bệnh viện Sài Gòn suốt 3 ngày thế nhưng ông vẫn thóat nạn!

Sau sự kiện cười ra nước mắt ấy, tôi có tặng một bài thơ Đường luật vui, trong đó có những câu:
“Phải chăngHổ Kiễng quá chừng gan
Dám giỡn mặt cũng chú  hổ mang
Chẳng đi săn bạc mà  săn rắn
Để bị mê man khổ lụy chàng…”

Ông rất vui và họa vận ngay:
“Nếu bào rằng gan ai chẳng gan
Bở vì nọc độc khổ đành mang…”

Cách đây hai năm tôi tình cờ gặp lại ông sau cánh gà sân khấu trong một đêm Văn Nghệ tại Nhà Thi đấu Thể thao Tây Ninh. Không ngờ đó lại là lần cuối. Nhớ biết bao nhiêu những kỷ niệm ngày nào với người nghệ sĩ dễ mến ấy!   


                                                           PHAN KỶ SỬU



NHỚ HỒ KIỂNG

Thế rồi nhắm mắt, xuôi tay
Ai cũng vô thường, cát bụi…
Còn gì trong hương, trong khói
Còn gì trong gió, trong mây?

       Có chăng một trời tiếc nuối
       Ngôi sao rụng cõi hư vô
       Có chăng ầm ào sóng dội
       Vào tôi biển nhớ tràn bờ

Một kiếp tằm bao chìm nổi
Mà những sợi tơ cuối cùng
Vẫn nhả trong cơn mòn mõi
Vẫn ươm bằng cà tấm lòng!

       Nửa thế kỷ một hành trình
       Anh chỉ một lần dừng lại
       Để nắm tro kia mãi mãi
       In đậm trần gian bóng hình

Không chỉ trong từng tấc phim
Mà cả trong từng cách sống
Đến từng câu nói, cái nhìn
Hóa một tầm cao lồng lộng!

       Biết anh sáng nhất cái Tâm
       Nặng nhất cái tình, cái nghĩa
       Dáng đứng .. . thì không thể nhầm
       Lối đi chẳng bao giờ rẽ.

Tôi gọi tên anh nghèn nghẹn
Đã xa rồi Hồ Kiểng ơi
Để ngỡ bên thềm lá rơi
Tiếng bước quen hôm nào đến .

                          Tháng 4-2013
                          PHAN KỶ SỬU

       

Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

THÁNG TƯ CỦA MẸ - Vân Trinh PHAN KỶ SỬU

Phan Kỷ Sửu

Đất trời đâu cũng mùa hoa
Tháng Tư sao cứ như là giấc mơ
Mắt già mòn mõi đợi chờ
Ba mươi năm, có đâu ngờ ôm con
Đẫm vai áo bụi Trường sơn
Những dòng nước mắt nóng hơn bao giờ
Bổng dưng muốn cất lời ru
Cho con sống lại tuổi thơ xa rồi
Bổng dưng cay xé bờ môi
Thương người mẹ khác cứ vời vợi trông
Quân đoàn vào phố trùng trùng
Con bà đâu nhỉ sao không thấy về ?!
Ở trong hạnh phúc bộn bề
Tiếng bom đạn vẫn ầm ì đâu đây!
Làm gì ngoài chấp đôi tay
Cầu mong đầu gió, chân mây ngút ngàn...
Có còn may mắn nào chăng?
Hay trên vầng trán vết hằn cứ sâu?! 

                           Tháng Tư , 2013
                          Vân Trinh PHAN KỶ SỬU


Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Vọng cổ VÀM CỎ ĐÔNG ƠI! - Thơ: Ngọc Mai - Ca cổ: Phan Kỷ Sửu



Thơ

Quê hương tôi đôi bờ sông Vàm Cỏ
Nét hiền hòa khi mỗi tối trăng lên
Áo bà ba nhấp nhô con đò nhỏ
Vang câu hò trên sóng nước lênh đênh

Lý Cái mơn

Dòng sông êm đềm trôi năm tháng
Lấp lánh trăng nghiêng, nhớ ngày ấu thơ thần tiên
Bến xưa con đò trưa sớm, tiếng ai hò lờ
Bồi hồi đôi mái chèo say mơ
Êm ái như vần thơ
Lắng vào lòng tôi suốt đời nào phai.

VỌNG CỔ

1- Vàm Cỏ Đông ơi! Mãi mãi con sông một dòng trong biêng biếc, như lòng người Tây Ninh yêu muôn đời tha thiết mảnh đất thiêng liêng son sắt, ân tình... Quê hương ơi! Trong sâu lắng trái tim mình, thương dáng mẹ chắt cây dầm mưa nắng, đưa con đến trường làng ươm mơ ước tương lai (-), bóng mẹ gầy in sóng nước áo nhòa phai, lặng lẽ mái chèo trôi, bao ký ức xa vời. Có thơ nào gói ghém trọn tình tôi.  Ơi! Vàm Cỏ thân thương ơi! Phương trời nhung nhớ.

Thơ

Bờ sông xanh cho em ngồi mơ mộng
Hương tràm bay thơm thoảng khói lam chiều
Cò vổ cánh lao xao lùm tre rộng
Vút trời cao lơ lửng những cánh diều

2- Đôi bờ sông bông lục bình nở tím, bờ bên kia lam khói, thoảng hương tràm... Những cánh có bay trắng cả lối qua làng. Em thuở đó tóc xỏa dài tha thướt, ngắm nắng hạ vàng trên đồng lúa xa xa (-)  Nghe quặn lòng khi nắng tạt lưng cha, gieo khoai lúa nuôi đời mình khôn lớn. Mái đầu sương pha cho cả nhà no ấm. Chan chứa ơn người như núi Thái vươn cao.

Thơ

Em chờ ai gió nhẹ lay tà áo
Nước gương trong soi má lúm đồng tiền
Tôi mơ màng thả hồn theo tiếng sáo
Dòng sông xanh xua tan nỗi ưu phiền

VỌNG CỔ

5.- Em chờ ai bên bờ sông lộng gió, áo tím bà ba loang vệt nắng nhạt phai  rồi ... Mắt chớp như sao theo tiếng sáo xa vời. Vàm Cỏ lung linh in bóng hinh thân thiết, soi má lúm đồng tiền, sao cứ hớp hồn ai! (-). Chưa nói được lời yêu, chưa hứa hẹn, ước mơ, mình chỉ  cố nhìn theo những bước mềm thầm lặng. Ai thấu chăng một tấm tình sâu nặng, một trái tim mơ ánh nắng tươi hồng

Lý Tòng quân

Bao tháng ngày, ăm ắp dòng nước trôi
Bến sông xưa, nhung nhớ sao con đò
Và tóc em bay, mái tóc dài như suối
Và chút hương quen sao cứ vương trong mộng
Ai biết mình đang yêu
Ai biết mình đang say.

6.- Sao em chẳng chờ tôi bên bờ sông lộng gió, mắt bâng khuâng như muốn nói câu gì ?

Thế rồi ngày ấy tôi đi
Tiển chân tôi sóng thầm thì dưới chân
Mai về rồi cứ phân vân
Yêu ai, sao mãi yêu thầm, buồn không.

Ngọc Mai và Phan Kỷ Sửu

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

NHỚ GẠC MA - Thơ xướng họa của Vân Trinh và Quỳnh Hoa

Ảnh từ báo Việt Nam Net

Bài xướng:

TƯỞNG NHỚ NHỮNG ANH LINH GẠC MA NGÀY ẤY !
Để tưởng nhớ  64 anh hùng, liệt sỹ Hải quân đã hy sinh ngày 14/3 /1988 trong trận hải chiến Gạc Ma

Không thể nào quên được Gạc Ma
Ngày nào máu Việt nhuộm Trường Sa!
Một bầy xâm lược trơ nanh vuốt
Bao tấm kiên trung giữ nước nhà
Cả  trái tim xuân  cũng xuất trận
Trọn con đường trẻ cố xông pha
 Anh linh muôn thuở soi nòi giống
Tưởng nhớ càng thêm vững bước ta. 

                               VÂN TRINH 


NHỚ GẠC MA
(Họa loạn vận)

Mỗi tháng ba về nhớ Gạc Ma
Còn đây tiếng thét  nhói  tim ta
Vì quân ngang ngược bày mưu độc
Nên biển hiền hòa nhuộm máu pha
Uất hận trào theo cơn sóng bổ
Đau thương đè nén lệ lòng sa
Cúi đầu tưởng niệm gương oanh liệt
Sống mãi tên anh đẹp sử nhà.

Trần Thị Quỳnh Hoa

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013

Vân Trinh PHAN KỶ SỬU - TRÁI TIM CỦA NÚI BÀ ĐEN




Rực sáng ngàn năm một trái tim
Núi Bà lòng mẹ vốn vô biên
Đạn bom tàn phá càng vươn thẳng
Chất độc chôn vùi vẫn ngẫng kên
Bền bỉ đá thêm xanh khát vọng
Vững vàng dạ mãi đỏ niềm tin
Cứ trông dáng đứng mà suy nghĩ
Hãy giữ cho cao cách sống mình.  

         Vân Trinh PHAN KỶ SỬU

NỐI TIẾP MẠCH TRĂNG NGÂN - Phan Kỷ Sửu đọc thơ Nguyệt Quế

Nhà thơ NGUYỆT QUẾ

     Cách  đây hai tuần, Nguyệt Quế đã ghé lại nhà tôi tại Thị xã Tây Ninh và trao tặng tập thơ thứ hai của cô: TÓC RAU HẸ. Thật mừng cho Quế bởi vì tập thơ này cũng chính là một sự khẳng định rõ ràng là cô đã vượt qua những hạn chế của tình trạng bệnh tật để tiếp tục bước trên con đường của mình một cách rất vững vàng.

     Vâng! Cái mạch cảm xúc từ một cõi trăng ngân hình thành năm năm về trước đã được nối tiếp với hình ảnh thân thương của một lọai rau đặc sản của vùng quê Gò Chùa - Xóm Mía của cô: Rau hẹ.      

      Với Nguyệt Quế, cây hẹ chính là hình ảnh của quê hương, tóc lá hẹ là những dòng tóc dài. Mềm mại chảy xuống đôi bờ vai của những thiếu nữ quê nhà trong đó tất nhiên là có mái tóc  của bà, của mẹ cô và của chính cô thời xuân sắc.Với hình ảnh cây hẹ đơn sơ, mộc mạc trên những, thửa đất rẩy êm đềm dước bóng mát ngôi chùa Cao Sơn cổ kính, Nguyệt Quế còn ấp ủ trong tận nơi sâu lắng nhất của lòng mình cái tình yêu rất đổi thiêng liêng đối với mảnh đất chôn nhau, cắt rốn của mình.

       Là một người làm thơ, một người bạn thơ, tôi muốn trình bày sau đây một vài cảm nhận của mình khi đọc “Tóc rau hẹ” của Nguyệt Quế. Chỉ một vài cảm nhận thật khái quát mà thôi!

    Nguyệt Quế là một trong những cây bút nữ hiếm hoi ở Tây Ninh được người yêu thơ chú ý. Là một giáo viên đã về hưu tức là Quế không còn trẻ nữa. Thế nhưng thơ của cô không hề hằn lên những nếp nhăn của tuổi đời chồng chất mà trái lại nó rất trẻ, trẻ từ trong ý nghĩ, đến những từ ngữ, hình thức mà cô sử dụng. Bản chất của cô từ khi chấp chửng bước vào thơ cho đến nay là chân tình, giản dị và dạt dào những cảm xúc rất nữ tính. Nó tóat lên vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ đất phương Nam. Cô không hề tạo nên một sự lập dị nào cũng không hề tạo cho mình một thế giới nào có vẻ bí ẩn, lạ lùng chỉ có mỗi riêng cô là có quyền đặc chân đến. Đó là cái điều mà một số người làm thơ hiện nay đang làm để rồi vô tình biến mớ ngôn ngữ của họ trở thành một thứ vật chất không hồn. Người ta đọc thơ mình mà không biết mình muốn nói đến điều gì, thế thì mình làm thơ để làm gì? Điều đó theo tôi không phải là một sự khám phá, một sự tìm tòi mới lạ nào cả! Khám phá cái gì? Mới lạ chỗ nào mà sau khi đọc những dòng chữ gọi là thơ ấy xong, người đọc đành thất vọng, lắc đầu và than thờ: Mình đọc thơ mà chẳng thấy thơ ở đâu cả!

      “Tóc lá hẹ” của Nguyệt Quế hôm nay là  một chuổi nối tiếp những âm thanh của vầng trăng ngày trước. Những âm thanh không hề co cụm lại trong một phạm vi cố định nào mà nó dạt dào hơn, thanh thóat hơn, cô đọng hơn, sâu lắng hơn và ngân xa hơn.

   Bài thơ  đầu tiên  của Nguyệt Quế mà tôi đã  đọc đi, đọc lại nhiều lần: Lá, chỉ có một từ Lá thôi vậy mà sức gợi cảm lại mang cấp số nhân: Từ những chiếc lá khô âm thầm rơi trong đêm, rơi vào nỗi nhớ. Cái âm thanh rất thầm đó ru cô vào những kỷ niệm đã xa.

         “Lá ngủ trên tay
           Đêm dài mộng mị
           Người chưa trở lại
           Lá phai xuân thì..”

    Êm êm như thế, du dương như thế mà lại dễ nhập vào cái cảm giác man mác, bâng khuâng khi mộng đã trôi qua.

                        Ảo ảnh tan đi
                       Lá như bở ngỡ…”       
       
    Bài thơ mang cái tựa“Không đề” nhưng vẫn ấp ủ những gì mà tác giả muốn nói đến đó chính là cái hình bóng quê nhà miên man trong ký ức. Bài thơ mang hơi hướng Đường luật nhưng hòan tòan không cũ:

                   “Man mác trầu xanh buồn lá úa
      Ngậm ngùi cao rụng nhớ vườn xưa
      Rưng rưng tiếng dế bờ ao cũ
      Gối đá mơ màng bóng nguyệt xưa”

       Điều đáng trân trọng nhất ở Nguyệt Quế là một điều hòan tòan khác hẳn với khuynh hướng của giới trẻ hiện nay: Giới trẻ họ chỉ loay quay với mớ từ ngữ đã quá sáo mòn, nhàm chán như hẹn hò, gian dối, dỗi hờn, yêu đương, nhung nhớ … Cũng như các giai điệu trẻ không hề thóat khỏi hai đại từ anh và em. Còn Nguyệt Quế thì khác. Cô đi sâu vào những điều tưởng chừng như rất gần gũi, bình thường trong cuộc sống nhưng lại rất cao cả, thiêng liêng. Đó là hình ảnh của những buổi chiều quê Xóm Mía có tiếng bìm bịp kêu khắc khỏai chạnh lòng … Đó là cái giàn bông giấy buồn rụng tím chiều mưa trên con đường cô về thăm thầy cũ. Đó là những làn nắng Gò Dầu long lanh trải mật gợi nhớ mãi.

                   “ Những ngày đi học
                      Đường hoa dầu áo lụa trắng bay…”
                                                      (Thương lắm Gò Dầu)

Đó là “Cánh đồng bưng trĩu lòng bông lúa gọi…” dội vào ký ức cái thuở lưng trâu, mùa nước nổi, cứ làm cô xót xa tưởng nhớ đến nghĩa mẹ, công cha những ngày  dưỡng nuôi gian khó.

                    “Con cua đồng kho chua lá bứa
                      Bàn tay cha mưa nắng bùn lầy
                      Rau hẹ ghém rối bời tóc mẹ
                      Con no lòng cơm độn sắn khoai..”
                                                    (Hương lúa)

Nỗi nhớ mẹ càng xé lòng hơn đối với Nguyệt Quế khi bóng mẹ hiền đã khuất nhòa  phía bên kia cuộc đời:
                  
                  “Nghe thèm một chút heo may
                    Nhớ mùa rau hẹ dáng gầy mẹ yêu…”
                                                   (Tóc rau hẹ)
                   
   Tưởng nhớ  đến đấng sinh thành, không ai có thể thề bỏ quên hình ảnh  những người muôn năm cũ đã tạo nên hình hài của họ. Đó là cái đạo làm người, cái truyền thống “uống nước nhớ nguồn” từ ngàn đời của dân tộc Việt nam. Vậy mà những hình ảnh thật thân thương, khả kính đó lại xa dần trong thơ của những người trẻ tuổi bây giờ! Đó là ông bà nội, ngọai. Bài thơ “Ngọai ơi” thật giản dị. Cái giản dị làm cho người đọc muốn rưng rưng :

     Con đã về đây với Bến Cầu
     Giữa mùa lúa trổ trắng hoa cau
    Vười xưa chim hót trên cành bưởi
    Bóng ngoại tìm đâu? Lạnh khóm trầu.

  Thơ Nguyệt Quế còn trải dài trên nhiều chủ đề phong phú khác. Nói chung, những cảm xúc của cô là những cảm xúc thật, do đó, nó dễ chạm vào tâm tư người khác. Cuộc sống bây giờ rất cần có những vần thơ như thế! Xin chúc mừng thành công mới của Nguyệt Quế, và riêng tôi cũng có một vần thơ ngắn tặng người bạn thơ Nguyệt Quế với tựa đề MỘT VÒNG NGUYỆT QUẾ TẶNG EM.

        Với những tâm tư mộc mạc, quê mùa
        Tôi kết lại tặng em vòng Nguyệt Quế
        Tặng những vần thơ xanh lá hẹ Gò Chùa
        Và trong vắt tiếng chuông Cao Sơn rơi lặng lẽ

        Những lá hẹ  mượt mà như tóc bà,tóc mẹ
        Và tóc em thời thiếu nữ xa rồi
        Thắm vào tôi như hương đồng Xóm Mía
        Như  một chất men rất nồng ấm tình đời

        Ơi từng câu thơ yên ả đất trời
        Lắng hơi thở  của em và cuộc sống
        Và tôi hiểu nó không hề lẽ bóng
        Và bơ vơ  như như chiếc lá khô rơi…!


                                                PHAN KỶ SỬU

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

LẠC LÕNG - Thơ xướng họa của Trần Thị Quỳnh Hoa, Vân Trinh, Trần Ngộ



LẠC LÕNG

Chơi vơi, lạc lõng ngã ba đường
Phải trái đâu người dạ xót thương
Ngóng hỏi trời xanh trời lẳng lặng
Cuối dò suối bạc suối du dương
Chờ mây dẫn lối, da hong nắng
Đợi bạn đưa đò tóc nhuốm sương
Lẩn thẩn quanh mình cây, cỏ, đá
Nào ai hiểu được khối sầu vương.

                              TT. QUỲNH HOA
                              
Họa 1:

EM CÒN LẠC LÕNG ĐẾN BAO GIỜ?
(Họa vận “Lạc Lõng” của Quỳnh Hoa

Lạc lõng bóng ai mấy ngả đường
Tình đời có gởi chút niềm thương
Trời xanh, trời cứ xanh, không nắng
Sông lạnh, sông càng lạnh tiếng dương
Mây nhạt nhòa rồi quên bến cũ
Thuyền lang thang mãi khuất cầu sương
Hỏi cây hỏi cỏ ... bao giờ nhỉ?
Sao cứ hoài vương vấn, vấn vương?!
                              
                                Tháng 01-2013
                                 VÂN TRINH

Họa 2:

ĐỒNG TÂM

Mật đắng mà yêu vẫn ngọt đường
Tâm hòa ý hợp đã thân thương
Thuyền kia thuận gió mòn đông hải
Mái nọ xuôi buồm tát đại dương
Giao ước trăm năm dù dãi nắng
Thề nguyền trọn kiếp dẫu dầm sương
Đồng cam cọng khổ tròn ân nghĩa
Đạo trọng phu thê thị khả vương

TRẦN NGỘ 
Lâm Đồng

Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

THẦM LẶNG MỘT LÀN HƯƠNG - Phan Kỷ Sửu

Khoa cấp cứu Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh


    (Thân tặng các bạn đang khoác áo blouse ở TN)

Một làn hương đâu đó bồng bềnh
Có phải từ dòng suối tóc em?
Đêm vào ca trực, đêm im ắng
Hương ngấm vào tôi cả chất men!

Một làn hương lặng lẽ dịu êm
Có phải từ đôi vành môi mềm
Thắm son mà ạt ào như sóng
Đến cả câu thơ cũng đắm chìm

Một làn hương dào dạt, lâng lâng
Trại bệnh đêm dài, nhẹ bước chân
Hình như từ áo blouse trong trắng
Hương rợp tình đời em biết chăng?

Một làn hương thoang thoảng ngây ngây
Lắng mãi, không tàn không nhạt phai
Với tôi đâu có hương nào khác
Như thế để lòng luôn đắm say!

                       PHAN KỶ SỬU
kysuuttv@yahoo.com.vn

Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

HOÀNG SA, TRƯỜNG SA MÃI MÃI CỦA TA - Thơ xướng hoạ Vân Trinh - Quỳnh Hoa

Bao la biển trời - Ảnh Vũ Anh Tuấn




Xướng:
HOÀNG SA, TRƯỜNG SA MÃI MÃI CỦA TA

Máu thịt muôn đời,Tồ Quốc ta
Hoàng Sa kiêu hảnh cạnh Trường Sa
Đứng trên đầu sóng, vang lời Hịch
Giương thẳng ngọn cờ,dậy tiếng loa
Cộc sắt Bạch Đằng,nâng bước trẻ
Gươm thần Nguyễn Huệ, tiếp anh cha
Trời xanh, biển biếc bao la ấy
Mãi mãi trong tim Mẹ Việt mà.

                                        Xuân 2013
                                        VÂN TRINH


Họa: 
TRƯỜNG SA CỦA TA

Biển đảo trời Nam, biển của ta
Nhịp tim thầm gọi mãi Trường Sa
Đoái trông mây bủa đau hồn sóng
Gợi nhắc đêm rền vọng tiếng loa
Như Nguyệt thơ thần vang đất nước
Đằng Giang cọc sắt nhớ ông cha
Hòa trong vị nước mồ hôi trẻ
Nên cả trùng khơi cứ mặn mà.
                                       Xuân 2013
                                       TT.Quỳnh Hoa.

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

ĐÂY RỒI BA NHỊP CẦU QUAN! - Phan Kỷ Sửu



Mình lại xuống dốc Tòa bên nhau
Sao mỗi bước cứ ngại ngần em nhỉ?
Kia rồi ba nhịp cầu Quan ngày nào
Chợt trẻ lại như khoảng trời đô thị

Ba nhịp cầu khoác áo mùa xuân
Đôi bờ rạch lại gần nhau rồi đó
Chợt nghe đời mình bỗng dưng bé nhỏ
Chiều tan trường qua phố nắng phai dần

Em dừng lại một bên đường đi bộ
Chảy qua cầu dòng rạch nhỏ trong xanh
Đâu những bóng ghe chài giăng lưới cá
Mái nhà sàn nghiêng sóng nước lung linh?

Mình qua phố Tây Ninh sao lạ lẫm
Vết rêu phong trăm năm cũ xa rồi
Những tầng mới lưng trời nhìn đăm đắm
Phải không em như một giấc mơ thôi!

Mình lại qua cầu Quan đông vui
Như là chợ hoa xuân ven bờ rạch
Nép vào anh, em, một cánh hoa đời
Còn hoa nào hơn giữa nghìn hương, nghìn sắc ?

Ngày xưa cầu đưa ta gặp tình đầu
Giờ lại dẫn ta đi tìm kỷ niệm
Cầu, nhân chứng của bao lần hò hẹn
Mình biết ơn mà biết nói làm sao?

Mình lại lên đốc Tòa bên nhau
Cầu phía sau lưng mà lắng trong tiếng thở
Nếu không có ngày xưa thì có gì để nhớ
Để  muôn đời yêu tha thiết cây cầu !...

                                     Tháng 2-2013
                                   PHAN KỶ SỬU