Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Phiếm luận : TẢN MẠN VỀ ĐÔI MẮT - Nhã My


              Ảnh của Tôi
                     Ảnh tác giả Nhã My

Đôi mắt là bộ phận quan trọng của con người. Nhờ có mắt chúng ta mới có được cuộc sống hoàn mỹ. Đã từ lâu trong văn chương sách vở đôi mắt được ví như cửa sổ tâm hồn. Tả đôi mắt của người đẹp thì "làn thu thủy, nét xuân sơn""mắt em là cả dòng sông".  Nào là mắt nai, mắt ngọc,  mắt ướt, mắt biếc, mắt mơ màng, mắt đen lánh (nhánh) hạt huyền, mắt …mơ huyền (vừa đen vừa mơ mộng chứ không phải …huyền …mờ!)

Tác giả của bài này hôm nay không miêu tả về con mắt mà chủ ý nói về những hoạt động của đôi mắt (đương nhiên không phải là khép và mở mắt tức ngủ và thức) đúng hơn là … kết quả có được do mắt làm việc .

                  "Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy ."
                  "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ."

Vâng! Nguyễn Du và Đoàn thị Điểm qua thơ văn đã cho chúng ta biết hai động từ trông và thấy. Trông tức là nhận xét bằng mắt trông qua cửa sổ, trông về quê mẹ (quê cũ). Người con gái đêm khuya ra đứng bờ ao. 

                  Trông cá cá lặn trông sao sao mờ.
                  Buồn trông con nhện giăng tơ.
                  Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai.
                  Buồn trông chênh chếch sao mai.
                  Sao ơi sao hởi nhớ ai sao mờ.
                                                (Ca dao)

Trông cũng có nghĩa là chăm sóc, giữ gìn: trông nhà, trông cửa trông em bé (trông trẻ), trông quán, trông (cửa) hàng. Trông cũng có nghĩa là mong chờ trong ngóng. Thiếu phụ trông chồng, mẹ trông (tin) con. 
Thấy cũng là nhận xét được bằng mắt thấy mờ mờ, thấy rõ ràng, mắt thấy tai nghe. Nhận biết được bằng giác quan nói chung như sờ thấy, ngửi thấy, nếm thấy ... Nhận biết bằng nhận thức cảm thấy, thấy vui, thấy buồn, thấy chán nản , thấy tức ... Thấy không chỉ khi mở mắt mà nhắm mắt cũng thấy một chân trời tím ngắt (?) Thấy ngay cả trong lúc ngủ như mơ thấy mộng thấy. 

                     Lạy trời đêm nay mằm mộng thấy. 
                     Mộng thấy người cho đỡ nhớ thương
                                           (Thơ của bạn LCV) 

Thấy còn để diễn tả một cảm xúc như thấy thương, thấy ghét. Hay để diển tả một sự quá độ (mệt , buồn , nhớ ...) thấy bà, thấy trời, thấy mồ tổ. Thấy được ghép với động từ cũng chỉ sự nhìn như trông thấy, nhìn thấy, dòm thấy, ngó thấy, xem thấy. Thấy là kết quả hiển nhiên của sự nhìn. 

                    "Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
                     Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
                     Ngàn dâu xanh ngắt một màu. 
                     Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai."

Đoàn thị Điểm đã khéo léo dùng hai từ trông và thấy để diễn tả liên hoàn một tâm trạng (bi ai) của chinh phu và chinh phụ lúc biệt ly.
 Vương Xương Linh, một tác giả Trung Quốc viết bài Khuê oán:

                    Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu .
                    Xuân nhựt hương trang thượng thúy lâu. 
                    Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc.
                    Hối giao phu tế mịch phong hầu.

Và kẻ hậu sinh này cũng bắt chước dịch như sau:

                   Trong cung thiếu phụ không sầu. 
                   Ngày xuân trang điểm lên lầu nhìn quanh.
                   Giật mình thấy sắc liễu xanh. 
                   Tiếc chồng vạn dặm công danh chưa về.
                            (Lời than khuê phụ, Nhã My dịch)

Thấy còn được "phóng tầm" ra không gian xa như nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan đã viết:

                   Xế thu người thấy xế thu chưa.
                   Sương trắng dồn lên khắp lối về.

Bây giờ xin mạn bàn tới chữ ngó và coi.

 Ngó là động từ cũng chỉ sự nhìn, để ý tới như ngó chừng, ngó xem, ngó thấy. Bà con với ngó là ngắm như ngắm cảnh (kiểng), ngắm hoa, ngắm núi, ngắm biển. Còn có nghía như ngắm nghía (từ đôi), nghía hàng (tiếng lóng). Ngắm nghía được ghép chung thành động từ kép chỉ sự chăm chú kỹ lưỡng khi nhìn hay lựa chọn. Ngó cũng dùng như từ trên cao nhìn xuống. Người đàn bà vô phước bất lực trước cảnh chồng đi nhậu nhẹt say sưa hay đánh bài phá của, mèo chuột nhăng nhít đã phải kêu lên ''Trời ơi ngó xuống mà coi ''. Nguyễn Du (Cầm diễn giả ) đã thốt lên khi gặp lại người xưa mà nhan sắc bây giờ đã tàn phai theo thời gian năm tháng.'' Đưa con mắt ngó mà mơ. Người xưa thế ấy ai ngờ đổi thay ''(NM dịch).Và đây là một chàng trai nhớ người yêu nhưng chỉ dám'' ngó em chẳng dám ngó lâu. Ngó qua một cái đỡ sầu mà thôi'' (vì quá bận hay vì sợ người khác ... ngó thấy ?)

Coi là xem đi coi hát, coi bói, coi tướng, coi tay, coi trời, coi ngày, coi bộ, coi kìa, coi chừng, coi nhà, coi cửa, coi mạch, coi quẻ, coi sóc, coi thường, coi như là, coi mặt đặt tên, coi kiếng (soi gương) và … coi mắt (coi vợ, coi dâu), coi cọp (cọp dê tức copier ngày trước khi gánh hát về làng thường hát ở sân chợ, sân banh sân khấu lộ thiên khan giả ngồi trong sân chỉ được che chắn sơ sài những ai không có tiền mua vé thì thường leo lên cây hoặc mái nhà gần sân khấu để coi hát cọp)


Dòm tự điển tiếng Việt giải nghĩa là nhìn qua khe hở, hé cửa dòm vào . Dòm là … dò xét, tìm kiếm, dòm trước ngó sau, trông một cách chú ý , để tâm theo dỏi. Dòm ngó là tò mò chuyện riêng tư của thiên hạ (ý không được tốt). Mới đây ở trong nước có scandal ''người đẹp dòm ngực'' khi một cô người mẫu tuyên bố là ngực của cô người mẫu khác là ngực thiệt sau khi cô này đã dòm được lúc bạn đang tắm!

Liếc giải thích theo từ điển là đưa mắt nhìn chếch sang một bên, rảo tròng mắt qua một bên để trông xéo mặt vẩn ngó ngay phía trước liếc trộm, liếc xéo, liếc liếc. Cử chỉ đưa mắt liếc ngay mặt người nào đó rồi liếc trở lai liền được coi như ghét bỏ người đó hoặc tỏ ý hằn học không thân thiện. Liếc cũng là nhìn sơ qua như liếc qua trang sách, liếc mắt nhìn trộm, liếc mắt đưa tình (đá lông nheo). Phan Khôi trong" Tình già" tả cảnh:

                         Hai mươi bốn năm sau .
                         Tình cờ đất khách gặp nhau .
                         Cả hai mái đầu đều bạc .
                         Liếc mắt đưa nhau rồi .
                         Con mắt còn có đuôi
              (đừng nhìn nhau nữa ai ơi .Tuyệt!) 

Còn Nguyễn công Trứ thì cứ … ung dung

                       Liếc mắt xem chơi người lớn bé . 
                       Ngoảnh lưng bàn phiếm chuyện xưa nay .

Nhìn là động từ có nghĩa là chú ý trông như nhìn sửng, nhìn chòng chọc, nhìn trố mắt (giương mắt ra để nhìn cho rõ), nhìn trân trân, nhìn trừng trừng, nhìn trối chết.'' Mẹ già trông con nhìn lá thu rơi.'' ''Nhìn nhau mà lệ ứa .'' Nhìn cũng có nghĩa là thừa nhận nhìn bà con, bạn bè, nhìn … con rơi. 

                      Gặp nhau cũng chẳng dám nhìn.
                      Cứ xem như thể là mình chưa quen.
                                                       (Thơ Nhã My)

Xem: nhìn để biết. Xem cảnh, xem sách, xem hát, xem hội, xem đời, xem truyện.
Xem là xét lại, xét kỹ như xem sổ sách, xem thiên văn, xem tử vi, xem lại.
Xem như là so sánh xem như, xem tợ, xem xem, xem ra


Trên đây chúng ta đã đảo qua một số động từ có dính líu tới đôi mắt. Phải nói là từ ngữ tiếng Việt vô cùng phong phú và sâu sắc. Đó là những từ thuần Việt. Để diễn tả tới những … hệ lụy có liên quan đến đôi mắt người Tàu dùng từ khán, kiến. Ta không dùng những từ này như động từ mà ghép với một danh từ Hán Việt khác thành danh từ kép để diễn tả sự việc có liên quan tới sự nhìn như là khán giả, khán đài, khán phòng, khán thính giả ...  Tuy là những từ được ghép bằng chữ Hán Việt nhưng cũng là từ thuần Việt (nếu tìm trong từ điển tiếng Hoa sẽ được trả lời không thấy vì người họ không xài những từ này)
Ông cha chúng ta đã dày công vun đắp nên một nền văn hóa VN tuyệt vời đầy màu sắc mà mỗi con cháu chúng ta có bổn phận phải trân trong, giữ gìn .

Tiếng Việt còn người Việt còn. Mong lắm thay.(Phạm Quỳnh)

                                                        SƯƠNG LAM

                                         ( Trích Tôi yêu tiếng nước tôi )


******************************************************

                        TẢN MẠN VỀ ĐÔI MẮT
                                     (Bài 2)

                Bất tri tam bách dư niên hậu
                Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như

               (Nguyễn Du –Độc Tiểu Thanh ký )

     Tạm dịch: 


                Ba trăm năm nữa về sau
                Biết ai là kẻ khóc sầu Tố Như

Đôi mắt ngoài nhiệm vụ để xem và thấy thì còn có một nhiệm vụ khác cũng không kém phần quan trọng là dùng để... khóc.Nếu con người không ai ...biết khóc thì thế gian này chắc sẽ là chốn thiên đường còn cặp mắt và tuyến lệ kia sẽ bị ...thất nghiệp .

Đứa bé lần đầu tiên đến trình diện cuộc đời bằng ...tiếng khóc (và nếu nó không khóc được thì nguy to vì có thể là nó không muốn ... gia nhập vào cộng đồng nhân thế nhiều phiền lụy này). Ai mà dám chắc rằng trong suốt cuộc đời mình chưa một lần đã khóc.
Vui khóc, buồn khóc, tức khóc, giận khóc, sướng khóc, khổ khóc.

Khóc từ Hán Việt là khốc (có dấu ô) có nghĩa là khóc thành tiếng và khấp(chữ â) là khóc không (ra) nước mắt, không thành tiếng, khóc ở trong lòng.

Để diễn tả cách khóc từ ngữ VN ta cũng có rất nhiều. Khóc sướt mướt, khóc nức nở, khóc thảm thương, khóc thê thảm, khóc thảm thiết, khóc thê lương, la khóc, gào khóc, kêu khóc, khóc hu hu.

Ở cấp độ nhẹ hơn thì khóc rưng rức, khóc rưng rưng, khóc...sơ sơ. Và còn có khóc thầm, khóc dối, khóc …giả đò.
Khóc là phản ứng của con người khi tình cảm xáo trộn thất thường mà chưa có sự can thiệp kịp thời của lý trí. Khóc cũng có khi vô duyên vô cớ “bỗng dưng muốn khóc’’. Khóc vì vòi vĩnh vì không được thỏa mãn đòi hỏi như trường hợp của trẻ con.

Khóc không chỉ cho riêng mình mà còn khóc ... cho thiên hạ . 

                   Khóc than chi xiết sự tình. 
                   Khéo vô duyên bấy là mình với ta
                                                            (Kiều )
Thông thường thì khi khóc phải chảy (ra) nước mắt. Từ lệ trong tiếng Tàu là chữ mục (có nghĩa là con mắt) có bộ thủy (là nước ). Không nói thẳng từ khóc mà chỉ nói lệ rơi (hay rơi lệ ) lệ ứa (ứa lệ ) nước mắt tuôn rơi, nước mắt rơi sợi vắn sợi dài hoặc đơn giản bình dân hơn chảy nước mắt là ta sẽ hiểu. 

      " Lau mắt đi em lệ ướt vai rồi ..." 

                        (Sang ngang - Đỗ Lễ)

Chữ lệ còn có thêm nghĩa khác (viết khác) là xinh đẹp mỹ miều. Do đó Lệ - tên lót của những người con gái - cũng thường có hai nghĩa. Thường thì ta dùng chữ lệ là đẹp, tránh chữ lệ là nước mắt vì sợ cuộc đời của những người mang tên này sẽ không được vui vẻ.
Tôi có một người bạn có cái tên đẹp mà cũng buồn Đỗ Lệ Hoài Thu. Họ Đỗ đi với Lệ đọc ra âm Việt thì cũng giống như là đổ lệ (khóc). Những ngày còn nhỏ tôi cũng thường hay thắc mắc về cái tên của bạn. Tôi nghĩ là hẳn bố mẹ của cô ấy chắc cũng có ... máu nghệ sĩ nên đặt tên con ... sướt mướt như vậy. Rồi một hôm hỏi bạn thì được biết ... y chang như vậy. Cô ấy sinh ra vào mùa thu khi người cha “theo tiếng gọi của núi sông” đi mất và người mẹ nhớ hoài mùa thu chia ly mà khóc! Về sau không biết có phải vì cuộc đời của cô ấy có thật sự không vui hay không mà khi làm lại giấy tờ bạn tôi bỏ đi chữ Lệ.

                                                         (Nói chuyện bên lề )

Nói về khóc thì có lẽ người Tàu ... ham (mê) khóc nhứt. Trong phim ảnh của Tàu chắc chắn là sẽ có vài cảnh khóc. Diễn viên khóc chưa đủ (đã) họ còn viết thêm tiểu thuyết tình cảm lâm ly bi đát để lấy thêm nước mắt của người đời. Trong đám tang ngoài thân nhân khóc lại còn thuê mướn thêm người ngoài vô khóc (khóc để diễn tả nỗi buồn hay khóc cho người chết được ...vui vì thấy con hiếu thảo,’’bàn dân thiên hạ ‘’tiếc thương!?)

Chiến tranh loạn lạc, chết chóc tang thương đã xô dân tộc VN xa dần với những nụ cười.
Những giọt nước mắt đắng cay khóc cho số phận, khóc cảnh chia ly, khóc vì mất mát tủi nhục cay đắng khổ đau.
Và đêm nay ở nơi cái xứ sở tuyết phủ sương giăng này cũng có một người xa xứ cũng đang ... đổ lệ hoài hương.
                                                                         SƯƠNG LAM

NGHỆ SĨ ĐÌNH HẠP: NỈ NON SÁO TRÚC, NHỊ CẦM - Võ Quê

Nghệ sĩ ĐÌNH HẠP



Nghệ sĩ Đình Hạp sinh năm 1938 tại làng Tả Kiên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Từ nhỏ, Đình Hạp có năng khiếu âm nhạc khi được tiếp cận với các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, tế lễ tại các đình, đám ở trong làng, xã quanh vùng. Do gia đình có truyền thống hoạt động cách mạng, đã có nhiều cống hiến vào các phong trào kháng chiến chống Pháp nên tình yêu nước, tình yêu quê nhà cũng được nung nấu, hình thành trong tuổi thơ Đình Hạp cho đến lúc lớn khôn.

Năm 17 tuổi (1955) Đình Hạp đã cùng người anh ruột vượt tuyến ra Bắc với tâm nguyện góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân, dành độc lập tự do, thống nhất tổ quốc. Xuất phát từ niềm say mê âm nhạc, trong khi ông anh theo học ngành múa thì năm 1958 đình Hạp thi vào ngành trung cấp nhạc dân tộc tại Trường Quốc gia Âm nhạc Việt Nam. Trong ba năm theo học ở nhà trường, Đình Hạp chuyên tâm rèn luyện hai loại nhạc cụ dân tộc là đàn nhị và sáo trúc, tập trung học hỏi phương pháp ký âm nhạc dân tộc.

Năm 1961, vừa tốt nghịêp trường Quốc gia Âm nhạc, Đình Hạp xin vào công tác tại Đoàn Ca kịch Trị Thiên (nay là Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế) đang đóng tại Mai Dịch, Từ Liêm Hà Nội, trong khi người anh của Đình Hạp đã là giảng viên Trường Múa Việt Nam. Trong quá trình ở Đoàn, Đình Hạp đã có điều kiện thực hành sở học nhà trường vào môi trường mới. Đình Hạp đã cùng các đồng nghiệp thường xuyên gặp gỡ, trình tấu, rèn luyện kỹ năng các nhạc cụ. Âm thanh réo rắt của đàn nhị, tiếng véo  von thanh thoát của sáo trúc cùng hòa âm với các ngón đàn của các nhạc hữu khác đã giúp Đình Hạp định hình tài năng cùng thực tiễn sân khấu, ca kịch Trị Thiên. Tại Đoàn, Đình Hạp căn cứ vào tính năng của từng loại nhạc cụ, các bài bản lớn của ca Huế, dân ca Bình Trị Thiên mà viết những bài nhạc cho riêng từng loại đàn tranh, tỳ bà, nguyệt cầm, nhị hồ... Đình Hạp đã có những thành công nhất định khi viết nhạc nền cho một số vở ca kịch Huế như "Con gà chân chì", "Phụng Nghi Đình", "Hoãn cưới" cùng nhiều hoạt cảnh ca kịch khác; Bên cạnh việc viết nhạc nền, Đình Hạp còn viết lời ca để nghệ sĩ Văn Lang đưa vào một số vở ca kịch Huế.

Việc sưu tầm, chỉnh lý, ký âm các điệu lý, dân ca lưu truyền trong dân gian từ trước đến nay là một trong những mối quan tâm của Đình Hạp. Anh đã chịu khó sưu tầm loại hình âm nhạc thuộc nhóm "nồi niêu", những bài bản "Xàng xê kép", "Lai kinh", "Chiến chiến", "Bông man", "Cơn roi mây tắt" ...  Nhiều đồng nghiệp, nhạc hữu ghi nhận công lao khó nhọc đầy trách nhiệm của Đình Hạp trên lĩnh vực này bởi qua các công trình nghiên cứu, sưu tầm, ký âm của Đình Hạp một bộ phận âm nhạc truyền thống trong dân gian không bị thất truyền mà được phục hồi, truyền bá một cách có hệ thống, phục vụ kịp thời các yêu cầu thưởng ngoạn của công chúng.

Năm 1964, nghệ sĩ Đình Hạp bắt đầu có một mối tình nghệ sĩ với Kim Vàng, diễn viên đoàn Ca kịch Trị Thiên cùng chung một sàn diễn với Đình Hạp. Mối tình đẹp đẽ ấy kéo dài đến 6 năm với nhiều kỷ niệm xuân thời. Năm 1970, Đình Hạp - Kim Vàng chính thức làm lễ cưới tại Hà Nội và họ đã sinh hạ được hai người con gái mà hiện nay đã trở thành hai nghệ sĩ : Mai Anh (đàn tranh), Mai Sao (diễn viên) đều đang công tác tại Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế. Từ năm 1980, nghệ sĩ Đình Hạp đã được Trường Nghiệp vụ Văn hóa tỉnh Thừa Thiên Huế mời giảng dạy âm nhạc cho nhiều thế hệ trẻ. Đã có nhiều học trò của Đình Hạp thành đạt sau khi ra trường, trong đó có nhạc công trẻ Minh Tuấn, hiện đang sử dụng đàn nhị ở Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế. Năm 1985, Đình Hạp ra công tác tại Phòng Văn Hóa Thông Tin Thị xã Đông Hà, tại đây dù đang trong giai đoạn gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng Đình Hạp đã góp phần tích cực trong việc xây dựng các phong trào văn hóa văn nghệ tỉnh Quảng Trị.

Sau khi ở Đông Hà một thời gian, Đình Hạp trở lại Huế cùng gia đình tham gia sinh hoạt nghệ thuật cùng CLB ca Huế thuộc Nhà Văn Hóa Huế. Đêm đêm du khách trong và ngoài nước có dịp thưởng thức những giai điệu đẹp từ cây đàn nhị của Đình Hạp cùng hòa âm với giọng ca ngọt ngào của các nghệ sĩ Ca Huế.

Do có quá trình hoạt động cách mạng, hoạt động trên lĩnh vực nghệ thuật, nghệ sĩ Đình Hạp đã được Nhà Nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng III, Huy chương Chiến sĩ văn hóa, Bằng khen Bộ Văn Hóa Thông Tin, UBTQLHCHVHNT Việt Nam tặng Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam... Hiện nay, gia đình nghệ sĩ Đình Hạp là một "mái ấm nghệ thuật" đúng nghĩa vì từng thành viên trong ngôi nhà ấy đã đi đúng định hướng của các nghệ sĩ lão thành thuộc thế hệ trước trong gia tộc. Tất cả một lòng cùng giới nghệ sĩ Huế ra sức bảo tồn, truyền bá đàn ca Huế, Ca kịch Huế, dân ca Bình Trị Thiên…

VÕ QUÊ
voque_hue@yahoo.com.vn

Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

SÓC TRĂNG - thơ Võ Văn Luyến




Cơ chi niềm vui dừng lâu hơn
Với Sóc Trăng vai mưa tóc nắng
Với Sóc Trăng huyền hồ mắt thẳm
Với Sóc Trăng động chiều cánh dơi.
Đừng trôi nữa sông ơi!
Lý xàng xê dềnh dàng câu vọng cổ
Trăng sao quên bên trời mờ tỏ
Đêm nhã hương vách thầm.
Duyên nợ gì không phượng Sóc Trăng?
Cứ như chờ tôi một bông cuối lá
Cứ như đòi xanh màu xưa yên ả
Nâng cầm gió trên tay.
Mai xa rồi, Sóc Trăng có hay
Bánh Pía* thơm môi người ở lại
Chùa Sà lôn** vàng bay áo vải
Thèm cơn mưa níu bước ai về…

Sóc Trăng, 12/8/2010
VÕ VĂN LUYẾN
* Bánh Pía: Đặc sản tỉnh Sóc Trăng. Chất liệu gồm: bột mì, đậu xanh/môn ướp Sầu riêng /hoặc nhân Sầu riêng, lòng đỏ trứng vịt muối và đem nướng.
** Chùa Sà lôn (còn gọi là chùa Chén Kiểu): một ngôi chùa đẹp của người Khmer.

NHỮNG VÁN CỜ - Vũ Từ Sơn


NHỮN



                                     Để yên bàn gỗ quân sừng
                            vào cuộc trận đấu tưng bừng xuất quân
                            điều binh xe pháo xa gần
                            vượt sông giáp chiến, mưu thần bày ra


                            Tượng oai không sang nổi hà
                            mã hay khéo cản, biết là về đâu
                            tướng tài ru rú cung sâu
                            sĩ hèn quanh quẩn trong lầu bó chân
                            châm ngòi pháo nổ vang ngân
                            bí cờ xe thí, tốt gần tốt xa ...


                            Chẳng kể bố con một nhà
                            chẳng tày bè bạn, bên ta - bên thù
                            vò đầu vỗ trán, khôn ngu
                            cao cờ chiếu tướng ... rối mù, xin thua!


                            Trong cờ, thua được như đùa
                            ngoài đời, xương thịt được thua mãi là!

                                               VŨ TỪ SƠN
                                      Hội viên Hội VHNT Bắc Giang.
                                      ĐC: Số 29, ngõ 137 Hùng Vương,
                                      TP Bắc Giang, tỉnh BG. 
vutuson01@gmail.com











                         

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

TIẾNG HÁT ĐÊM NOEL - Trạch An Trần Hữu Hội


         
Đôi nhân tình quàng lưng nhau. Đi ngang qua hai kẻ ăn xin. Có lẻ là một đôi vợ chồng. Người đàn ông loáng thoáng trong ánh đèn nhiều màu lập lòe chiếu ra từ giáo đường, hai hốc mắt trũng sâu, có vẻ như bị mù. Người đàn bà gầy gò, trên khuôn mặt nhiều nếp nhăn, hơi khó nhìn!

      Cả hai dìu nhau đi trong ánh sáng mờ nhòa, trên lưng người đàn ông khoác ngang cây đàn Guitar gỗ cũ kỷ. Họ hướng về phía cầu. Người con trai dừng bên họ, đặt vào bàn tay của người đàn bà một tờ giấy bạc thật mới. Có lẻ đây là món tiền cuối cùng được bố thí trong đêm Giáng Sinh. Trời đã gần nửa đêm!

      - Nếu ông ấy không mù thì chắc không lấy bà ta, anh nhỉ ?

      - Em có thấy bà ta có vẽ như bị cháy hay bỏng không? Nếu không bị biến dạng thì chắc bà ta không quá xấu, và như thế, bà cũng sẽ chẳng lấy ông ta!

      - Vậy là họ được Chúa sinh ra cho nhau?

      - Có lẻ ! Định mệnh đẩy đưa!

***                                                           



      36 năm trước. 

      Phòng trà mini Dã Quỳ đông nghẹt khách. Đêm Noel lùa khách đến Dã Quỳ bởi đây là nơi duy nhất không có giới nghiêm. Phần nhiều là lính, với một vài thiếu nữ, là tình nhân của họ… Thành phố Tây nguyên vốn hoang lạnh, càng lạnh hơn khi gió mùa đông từng cơn lùa qua các dãy phố xác xơ, cố gượng đón một mùa Giáng sinh với mấy dãy đèn nơi những máng cỏ, cũng sơ sài như chốn Belem hơn ngàn năm trước!

      Thỉnh thoảng những tiếng nổ ì oành, những trái pháo sáng xa xa trên bầu trời thưa ánh sao, điểm tô cho một đêm Giáng sinh thời chiến!

      Bốn người lính trẻ ngà say bước vào vùng không gian mờ ảo. Trên chiếc bục sân khấu nhỏ gọn, ban nhạc hòa theo một giọng ca nữ, nhẹ nhàng, thanh thoát với bản nhạc Đêm đông…

      “…đêm đông, ôi ta nhớ mong đường  về xa xa… đêm đông…ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng…gió lay ngàn cây ….gió đau niềm riêng…gió than triền miên…”

      Tấn nheo mắt tìm một chổ ngồi cho cả đám, chiếc bàn cuối vẫn còn … Họ ngồi xuống và tiếng hát nhẹ nhàng cuốn tâm tư họ vút cao … Quên đi cái tiền đồn buồn hiu hắt, nơi 3 giờ trước họ trốn ra với nỗi háo hức … đêm yên bình!

      Tiếng vổ tay  khẽ khàng …

      Tấn gọi bia “con cọp”. Nói nhỏ với cô gái chạy bàn: 

      - Anh hát một bản được không  em gái? 

      - Dạ được, anh chuẩn bị đi ạ, lát nữa thôi.

      Tiếng một giọng nam trầm, ấm…là một người lính, với bộ đồ rằn ri, chiếc nón xanh nằm trong túi áo! “ Thu đi…cho lá vàng bay, lá rơi…cho đám cưới về… ngày mai…người em nhỏ bé…ngồi trong thuyền hoa…”

      Tấn quặn lòng, anh nốc hết ly bia, nhớ đến Thùy và những giọt nước mắt  ngày anh nhập ngũ … Rồi lá thư dài báo tin nàng lấy chồng!

      Anh lên hát đi … Bàng hoàng, Tấn bước lên chiếc bục nhỏ … Anh nói khẻ với ban nhạc :

      - “Tiếng hát đêm Noel”. Chơi Blue nhé.

      Chàng trai trẻ gật đầu …Tấn mơ màng…

      “Vầng sao … chìm vào xanh mắt người yêu…Một  đêm … tơ vàng cuốn gió đìu hiu … đường trần … đêm No-el chói lòa ánh đèn, Lờì kinh đẹp vầng sao thánh thót … ngân trong giáo đường … Có đôi chim, ngắt bông hoa chiều no-el … bay xuống bên hiên giáo đường … khóc … nỉ non … Rồi đành … trời đày một sớm chia phôi … Người về để héo duyên rồi…riêng còn tủi hờn mà thôi….”

      Ầm! Tiếng mìn claymore nổ ngay trên con đường nhựa loang lổ, hất ngược cả bốn chàng lính trẻ ra sau, tiếng hét chuyển thành tiếng rên rỉ rồi im bặt sau một loạt đạn ngắn. Đêm trở lại yên ắng … thỉnh thoảng vài đóm hỏa châu ngoằn nghèo trên vòm trời khuya! Cuộc phục kích thật gọn!

      - Báo cáo thẩm quyền, chỉ mình chuẩn úy Tấn còn thở!

      Trung Úy Thăng chửi thề:

      - Mẹ kiếp, chết lãng nhách! Gọi cứu thương.

      Sáu tháng sau, Quân y viện quân khu II, xác nhận: Chuẩn úy Nguyễn Phúc Tấn mất thị lực 100%.



        ***

      Buổi tiệc reveillon của nhóm học sinh lớp 12 ban C vừa tan. Quá 01 giờ sáng. Luyện đi về cùng với Sương, họ đi bộ để tìm chút lạnh thú vị của đêm Giáng sinh. Có lẻ chút lãng mạn, bởi đôi bạn có chung tâm sự. Họ vừa chia tay người yêu. Hai chàng trai cùng đăng lính tháng trước.

      - Khi không mi hát bản nớ mần tau muốn khóc!

      - Thì  tại từ ngày Thủ đi, tau chỉ thích bản nớ…Bản mi hát còn ác hơn nữa ! “…Không chết người trai khói  lửa… mà chết người em gái hậu phương….!!!”

      Lời ca của bản “Lời tình buồn” và không khí đằm thắm của  buổi họp mặt vẫn còn vọng lại trong tâm hồn Luyện…

      “Anh đi rồi…còn ai vuốt tóc…Lời  tình thơm sách vở học trò…đêm xuống rồi em buồn không hở…trời sa mù tầm tay với âu lo…Anh đi rồi…” 

      Luyện bật khóc!

      Trở về căn nhà nghèo nàn … Mạ ngủ từ lâu. Luyện lên giường, kéo cao chiếc chăn trùm kín người, nhớ Thủ ray rứt ! Giấc ngủ tìm đến trong đêm muộn!

      Cháy ! Cháy  nhà mụ Hòa …

      Mần răng chừ ?!

      Lấy nước, lấy mền ướt…mau…!

      Ngọn lửa bao trùm căn nhà bằng ván ép và tôn ! Mọi cố gắng dập lửa đều vô vọng!

      Luyện nghe toàn thân nóng rát, cố dẫy ra khỏi chiếc chăn mà không được !  Luyện thét lên:

      Mạ ơi, mạ ơi…mạ mô rồi …

      Tất cả chìm trong tiếng nổ lốp bốp và tiếng la hổn độn …mơ hồ!

      Một trái sáng xuyên mái tôn bếp, gây ra tai họa trong đêm lành!

      Luyện tỉnh lại trong chiếc giường trắng muốt, đau nhức toàn thân … Vị bác sĩ người ngoại quốc, da trắng hồng hào …

      Đây là  bệnh viện của Hạm đội số 7 !

      Đôi tình nhân lang thang ra khỏi giáo đường, họ đi về phía cầu …, thỉnh thoảng dừng lại, những nụ hôn ngọt ngào … Họ ôm  sát nhau, chia nhau hơi ấm…

      Bên mé cầu, nơi khoảng đất trống có một cái chòi nhỏ … Ngọn đèn vàng vọt hắt ra xung quanh ánh sáng buồn buồn.

      Đôi tình nhân mỉm cười với nhau, dừng lại nhìn vào trong … Hai người ăn xin ngồi cùng nhau bên chai rượu. Người đàn ông mù đặt chiếc ly xuống chiếu:

      - Mình lại hát những bài hát đó nghe em… Người đàn bà gật đầu:

      - Dạ, anh hát trước đi.

      Tiếng đàn thùng trầm ấm:

      “…Vầng sao…chìm vào xanh mắt người yêu…Một đêm…tơ vàng cuốn gió đìu hiu… Đường trần…đêm no-en chói lòa ánh đèn…

      “Rồi đành trời bày một sớm chia phôi… người về đành héo duyên rồi…riêng còn tủi hờn mà thôi…”

      Đôi nhân tình lắng nghe tiếng hát ấm áp, nhẹ nhàng của người ăn xin…và rồi:

       “…Anh đi rồi …còn ai vuốt tóc…Lời tình thơ sách vở học trò…Đêm xuống  rồi …em buồn không hở…Trời sa mù…tầm tay với âu lo…”

      Giọng ca mượt mà vút  lên  trong không gian giá lạnh, trong đêm thanh vắng yên bình ! Nghe như những bài thánh ca …

      Họ chìm vào trong kỷ niệm của một thời xa xưa… 

     Anh, họ hạnh phúc !

      - Ừ, rất hạnh phúc! Mong cho nhiều tâm hồn đau khổ được hạnh phúc trong đêm nay!







15 tháng XII . 2012



Trạch An - Trần Hữu Hội









       

KỶ NIỆM VỀ MỘT TRÁNG CA CỦA NHẠC SĨ PHẠM DUY - Phạm Xuân Dũng


                                                                                           
   Đó là kỷ niệm về một bài hát kháng chiến chống Pháp của nhạc sĩ Phạm Duy mà chính tác giả cũng đã không còn nhớ.

    Những năm đầu sau ngày thống nhất đất nước, lúc tôi chừng hơn 10 tuổi. Hồi ấy cả nước còn nghèo khó, lạc hậu. Khi hòa bình mới lập lại sau ngày 30/4/1975 thì gian nan, thiếu thốn trăm bề. Đói cơm, đói cả các món ăn văn hóa tinh thần. Giữa vùng quê Quảng Trị còn ngổn ngang bom đạn thời hậu chiến, những đứa trẻ như tôi thường nghe người lớn hát lại những bài ca kháng chiến thời chống Pháp. Nhiều bài lắm nhưng thường là không biết tên tác phẩm mà chỉ nghe ca từ, giai điệu (có khi không thật chính xác ). Sau này khi lớn lên,anh em chúng tôi tìm hiểu mới biết đó là những ca khúc như: Xa chiến khu của Đỗ Nhuận, Đường rừngcủa Trần Hoàn hay Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy ... Còn nhiều bài hát nữa đến nay vẫn còn là  ẩn số khi đi tìm nguyên bản, tên tác giả, tác phẩm.

   Trong số những bài hát kháng chiến chống Pháp có một bản hùng ca, giai điệu hùng tráng mà pha chút gì lãng mạn:

      Bông Lau! Bông Lau! Rừng xanh pha máu
      Biên cương lưu danh ngàn đời về sau
      Khi quân ta tiến ra, vung gươm lên chói lòa
      Là quân Pháp một đi không còn về.
    
      Bông Lau! Bông Lau! Rừng xanh pha máu
      Biên cương lưu danh ngàn đời về sau
      Khi quân ta tiến ra như phong ba oán thù
      Là quân Pháp một đi không còn về.

      Bông Lau! Bông Lau! Rừng xanh pha máu
      Hương thơm sơn khê toàn dân yêu dấu
      Khi quân ta tiến ra như phong ba oán thù
      Là quân Pháp một đi không còn về.

      Bông Lau!Bông Lau!mồ chôn quân Pháp
      Biên cương ghi danh ngàn đời về sau
      Khi dân nghe súng vang,quân ta đang giết thù
      Mừng chiến sĩ Việt Namlập công...

  Ba mẹ tôi là dân Việt Minh ngày trước thường kể rằng: hồi ấy trong chiến khu Cây Xoài của quê hương Quảng Trị, những cán bộ tuyên truyền đưa những bài hát từ chiến khu Việt Bắc xa xôi vào với đồng bào chiến sĩ miền Trung: Bình - Trị - Thiên khói lửa. Giữa bốn bề núi rừng Quảng Trị, những bài hát chống giặc ngoại xâm, ngợi ca tinh thần yêu nước vang lên nức lòng người, giục giã tâm hồn trẻ già trai gái. Giờ đây, những người già tuổi trên dưới tám mươi, khi nhắc lại bên bếp lửa mùa đông giá rét, đón đợi xuân về, họ vẫn nói: Thời ấy khổ lắm nhưng mà vui lắm, đáng nhớ lắm. Nhớ nhất là những bài ca kháng chiến.

  Đọc hồi ký Phạm Duy và qua sách báo, tôi biết được Bông Lau là  một địa danh, một con đèo hiểm trở nằm trên vòng cung Đông Bắc của đường số 4 thuộc tỉnh Lạng Sơn giáp với tỉnh Cao Bằng .Nơi đây vào ngày 30/10/1947, bộ đội ta đã phục kích và tiêu diệt hàng trăm tên lính Pháp. Nhạc sĩ  nhớ lại: "Cũng ở vùng Lạng Sơn này và cũng trong chiến dịch biên giới năm 1947, tôi soạn một hành khúc mang tên một địa chiến là: BÔNG LAU.Tôi cũng quên hết lời ca và nhạc điệu rồi, chỉ còn nhớ vài câu..." (Phạm Duy -2010, một đời nhìn lại). Chính tác giả bài hát cũng nói rằng khi ở nước ngoài ông đã quên bẵng một trong những hùng ca thời đầu kháng chiến chống Pháp, đứa con tinh thần của chính mình của cả một thời hào khí. Đến khi về nước ông mới nhớ lại những kỷ niệm sôi nổi một thời trai trẻ. Ông còn nói thêm rằng chính một đồng nghiệp một thời kháng chiến của ông là nhạc sĩ Ngọc Bích (vừa  qua đời mấy năm) đã có lần nhắc ông nhớ lại tác phẩm này và hát lại bài hát: Bông Lau rừng xanh pha máu.

  Trong hồi ký của đại tướng Võ Nguyên Giáp có kể rằng hai bài hát thời đầu kháng chiến chống Pháp được ông yêu thích và nhắc đến,đó là trường ca Sông Lô của Văn Cao và Bông Lau rừng xanh pha máu của Phạm Duy. Chỉ tiếc tráng ca thứ hai có nguy cơ rơi vào quên lãng. Cho đến thời điểm này chưa ai có thể khôi phục nguyên vẹn lời ca và giai điệu của nó. Một bài hát mà tuổi đời đã đến 65, tuổi người sáng tác đã qua 90 và tuổi của vị danh tướng cũng đã trăm năm. Nhưng bất chấp mọi sự biến cải của nhân thế, bài hát vẫn còn lưu truyền âm ỉ trong dân gian như một hòn than nóng làm ấm lại ký ức những người gần đất xa trời và truyền lại cho đời sau một tinh thần yêu nước,gìn gữ non sông.

  Bài hát đã sáu mươi lăm tuổi, dài như một đời người. Và chắc có lẽ còn dài hơn thế ...

PHẠM XUÂN DŨNG

Đài PT- TH Quảng Trị
Thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị
Đt: 0985.972.975 
dpthachthao@gmail.com

  
 
  

Minh Tự - CÚI ĐẦU TRƯỚC QUẢNG TRỊ (Trích trường ca)



…Tôi không biết mình yêu Quảng Trị tự khi nào
cũng như không thể biết bao giờ thì hết yêu
cái vùng đất khô cằn cát trắng
xe chạy qua cũng muốn chạy thật nhanh
nhưng người thì lại muốn dừng lại bước xuống
cúi đầu trước đất thiêng.

Cúi đầu trước Bến Hải, Hiền Lương.
Vết cắt của cả dân tộc nhưng đau buốt nơi này
Cúi đầu trước cổ thành Quảng Trị.
Bom đạn như sỏi đá vãi xuống đây như trò chơi
mà đau thương đổ nát thì rất thật
Thật đến hai trăm phần trăm.

Cúi đầu trước thánh địa La Vang
Thưa Đức Mẹ
Có những điều rất thật lại không đáng tin
nhưng lại có những điều đáng tin dù khó thật
Đó là giấc mơ nhân loại là anh em, trái đất là một ngôi nhà
Tôi nghe lời nói đó âm vang trong một buổi chiều Quảng Trị.

Cúi đầu trước sự nhọc nhằn khổ ải
của những người dân nghèo
khổ đến mức không khổ hơn được nữa

Cúi đầu trước những đứa học trò nghèo mà học hành giỏi giang
Nhẫn nại thay đổi đời mình
Nhưng quyết không bao gìơ vượt khó
Bằng cách xin xỏ hạ mình.

Cúi đầu trước những đứa bạn thông minh
ở góc núi Tân Lâm hay heo hút Thuỷ Ba
mà cái gì cũng biết
chỉ không biết một điều
thực dụng

Cúi đầu trước những bà mẹ sinh ra những đứa con thông minh và nhân nghĩa
Nuôi chúng lớn lên bằng hạt lúa củ khoai thấm đẫm máu của người cha
ngã xuống bởi quả bom còn sót lại trên đồng.
Bằng những chuyến hàng lậu đường 9 thấm đẫm nước mắt
và đôi khi thấm cả máu…

Tôi không nhớ mình biết đến Quảng Trị tự khi nào
Hình như là năm Bảy Hai
Anh hàng xóm thoát chết trận đường 9 Nam Lào trở về
Tôi nghe loáng thoáng mấy từ “Mùa hè đỏ lửa”
Bà mẹ hàng xóm thở dài
“Ở đây mình đã  cực như ri thì ở ngoài nớ mần răng sống cho nổi ?!”.

Tôi yêu Quảng Trị ngay từ lúc đó
Tôi ứa nước mắt khi chuyến tàu chợ đêm lầm lũi chạy qua trảng cát dài Hải Lăng
Tôi nhớ không nguôi một sớm mai đường 9 nở đầy hoa dã quì
Tôi quên sao được bữa rượu giang hồ dưới chân cầu Đông Hà nửa đêm lạnh buốt.

Tôi yêu Quảng Trị từ khi đó
Và không biết khi nào thì hết yêu…


MINH TỰ

Phạm Xuân Dũng gởi đăng