Nhà vua đang ngồi trên ngai, đột nhiên bước xuống, đưa mắt đảo quanh chính điện rồi dừng lại ở hai long trụ hai bên ngai vàng. Quần thần liếc nhìn nhau mà trong lòng hồi hộp lo sợ không biết họa hay phúc sẽ xãy ra đây. Quan Tể Tướng vội quì xuống, hô to:
- Hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế!
Quần thần như cởi được gánh nặng, đồng loạt quì mọp xuống, hô theo:
- Hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế!
Lần nầy nhà vua mới quay mặt lại, chầm chậm nhìn những bề tôi trung thành, nhưng vẫn lặng thinh; thong thả trở lại ngai vàng:
- Chư khanh bình thân.
Quần thần đứng lên, lại kín đáo nhìn nhau, nhưng không ai dám hé nửa lời. Quan Tể Tướng vừa vòng tay, định tâu điều gì đó, nhưng nhà vua khoát tay nói:
- Trong bao năm trẫm trị vì thiên hạ, nhờ hồng phúc tổ tiên mà bốn cõi thanh bình. Nay trẫm muốn có cặp phi long treo tại sân ngai (vừa nói nhà vua chỉ hai long trụ), để tán dương công đức tiền nhân, và cũng để các man di thấy đó mà sợ uy thiên tử. Các khanh liệu lẽ nào?
Quần thần thở phào! Sau phút giây căng thẳng thì lại có người cố nén cười vì ý nghĩ lạ lùng của nhà vua : “Uy thiên tử chỉ dựa vào hai con rồng thôi sao! Đã có hai long trụ rồi, còn vẽ rồng, vẽ rắn chi nữa?”.
Không khí yên lặng đến ngột ngạt. Bỗng một người quì xuông tâu:
- Tâu bệ hạ! Nếu cặp phi long mà bệ hạ muốn thêu thì hạ thần không dám lạm bàn; nhưng nếu bệ hạ muốn vẽ, thì ngoài lão Hạ, thiên hạ nầy khó kiếm kẻ thứ hai.
Kẻ vừa tâu là quan ngự y. Nhà vua hơi thất vọng, vốn không ưa “lão già lùn” nầy, nên ít nhiều mai mỉa:
- Lão Hạ là ai? Đường Bá Hổ có dám sánh với hắn không?
- Tâu bệ hạ, hắn họ Hạ, không có tên, cư trú trong một cái hang ở chân Nhạn Sơn. Lúc hạ thần còn là một thầy thuốc vô danh chưa được thánh ân; trong những lần hái thuốc, hạ thần thường ghé lão uống trà…
Nhà vua bực mình:
- Trẫm hỏi Đường Bá Hổ sánh với hắn thế nào?
Quần thần đều lo sợ cho ngự y, nhưng ông ta vẫn bình tĩnh :
- Tâu bệ hạ, hạ thần dốt nát nên không biết Đường Bá Hổ là ai và có tài gì; nhưng với lão Hạ thì tài vẽ của hắn thần biết rất rõ: Hắn vẽ hoa thì muôn ong, ngàn bướm cứ ngỡ là hoa thật nên tranh nhau tìm mật; vẽ cây trái thì chim cứ ngỡ là cây trái thật nên cùng đáp xuống tranh giành; vẽ cọp báo thì thú rừng cứ ngỡ là cọp báo thật nên đạp nhau mà chạy…
Nhà vua đổi thái độ, nôn nóng:
- Khanh có thấy hắn vẽ rồng bao giờ chưa?
- Tâu bệ hạ, hạ thần chưa từng thấy.
Nhà vua vuốt râu, gật nhẹ đầu ra chiều suy nghĩ…
Đúng ba ngày sau, như lệnh của nhà vua, quan ngự y đưa lão Hạ về triều. Đó là một người tuổi chỉ ngoài độ năm mươi, tóc đen mươn mướt, mắt sáng như sao, mày rậm môi dày, râu hàm giáp tóc, tiếng nói như chuông, trông giống như một hảo hán hơn là người cầm bút! Nhà vua chỉ tay về hai long trụ trước kim ngai:
- Ta nghe quan ngự y nói nhà ngươi có tài vẽ cỏ hoa muôn thú, vậy ngươi có thể vẽ cho ta hai con rồng trên hai dải lụa để treo hai bên long trụ nầy được chăng?
Lão Hạ suy nghĩ một lát rồi tâu:
- Tâu bệ hạ, thảo dân tuy tài mọn, nhưng cũng hết sức làm vừa lòng bệ hạ. Có điều…
- Nhà ngươi cứ nói!
- Có điều rồng vốn là vật thiêng, biến hóa khôn lường: Muốn lớn thì bầu trời cũng chật, muốn nhỏ thì chui vô hạt cải cũng vừa. Lại còn vô song uy vũ: Gọi gió thì núi rừng lá đổ cây nghiêng; làm mưa thì đồng bằng hóa thành biển nước. Khi tắm thì biển nổi ba đào, còn chê biển cạn; khi vẫy vùng, trời cuộn cuồng phong, còn giận trời chẳng đặng cao. Bởi vậy, rồng là biểu tượng của đấng chí tôn, không thể dùng những loại lụa tầm thường mà vẽ được.
Nhà vua nghe mấy lời như mở cả tấm lòng, sau tràng cười thích chí, nhà vua hỏi:
- Ý khanh thế nào?
- Tâu bệ hạ, trên ba ngàn thước cao, núi Thiên Sơn có một vùng có cây băng tang mà chưa ai biết đến. Đã ngàn năm nay chúng đã thọ khí thiêng sông núi. Đêm gội sương trời, ngày tắm dương quang, nên thân to như tùng bách, lá lớn tợ sen, băng tàm to cỡ ngón tay, khi “chín” thì màu đỏ như son, nhộng to bằng cái đấu. Được tơ của chúng thì lụa dệt tha thướt như mây, tỏa ngời ngũ sắc, ban đêm lung linh trông tợ ánh bảo châu. Rõ là trên đời có một!
Dù nóng lòng muốn có sớm hai bức họa rồng, nhưng lời lão Hạ không phải là không có lí, nên nhà vua đành ưng thuận, hẹn với lão Hạ vào Đông Chí năm sau.
Đúng hẹn, lão Hạ đến, dáng dấp hơi gầy, thần sắc hơi xanh hơn trước, mái tóc Hạ lấm tấm những sợi bạc. Nhà vua truyền cho ngồi trước một bàn dài được cẩn ngọc chạm ngà đặt sẵn tự bao giờ, Lão Hạ bày ra bút nghiên đủ loại, son mực đủ màu. Một vị quan mang ra hai dải lụa, được để trên chiếc mâm vàng, trịnh trọng đặt trước lão Hạ.
Mọi người hồi hộp chờ đợi.
Lão Hạ cẩn thận cầm một dải lụa lên quan sát một hồi rồi để nhẹ xuống bàn; đoạn cầm dải lụa thứ hai, cũng đưa lên tận mắt, quan sát càng kĩ hơn, rồi hốt nhiên quì xuống dưới chân nhà vua, trước bao cái miệng há hốc kinh ngạc tận cùng. Lão Hạ:
- Bệ hạ thứ tội! Thảo dân không thể chấm bút của mình trên hai dải lụa nầy!
Nhiều tiếng xì xào trong đám quần thần, thâm tâm họ lo giùm đầu của lão Hạ không còn dính cổ. Nhà vua quát:
- Nhà ngươi nói thế là sao?
- Tâu bệ hạ, đây đúng là loại tơ tằm cưc quí của Thiên Sơn, nhưng tiếc thay có lẽ là do thời gian cấp bách, nên các người chuyên trách lại làm lẫn lộn vài sợi thao càn (sợi tơ lớn), khiến cho lụa mất đi tính óng ả, mềm mại của những sợi thao lột (sợi tơ nhỏ)! Và điều thần không hiểu là tại sao, từ kén của băng tàm, những sợi tơ có thể kéo dài hàng mấy dặm, mà trên hai dải lụa nầy lại có nhiều mối nối, điều nầy làm cho nó khó tránh khỏi nét thô tục, vụng về! Nếu thảo dân cứ đặt bút vẽ bừa, chẳng phải là mang tội với bệ hạ hay sao? Cúi xin thánh ân lượng xét!
Lão Hạ nói xong, trình cho nhà vua xem. Xem xong, vua lại đưa cho quần thần. Mọi người hết lời thán phục sự tinh tường của lão Hạ.
Theo thỉnh cầu của lão Hạ, nhà vua đành chấp nhận thêm hai mùa đông tới!
Rồi ngày ấy cũng đến! Quì trước sân rồng là một người tóc trắng như bông, khí thần hốc hác, chiếc gậy trúc được để kề bên. Nhà vua động lòng:
- Sao chỉ mới hai năm mà trông khanh tiều tụy như vậy?
Sau vài tiếng ho, Hạ đáp:
- Tâu bệ hạ! Người nghệ sĩ luôn đổ tâm huyết vào tác phẩm của mình, dù tác phẩm ấy chỉ để thưởng thức bên chun trà chén rượu; huống chi là một tác phẩm để đời! Người nghệ sĩ có lòng tự trọng, cũng không thể vì quyền lực hay chén cơm manh áo mà chấm bút phóng bừa; xem tác phẩm là phương tiện đạt tới vinh hoa, mà bất chấp búa rìu dư luận! Thảo dân một đời cầm bút, kinh tởm sự đê hèn của những kẻ tự xưng là thi sĩ, văn nhân, mà lại quì mọp mình để uốn cong ngòi bút hầu cầu hưởng lợi lộc nhất thời mà lưu tiếng xấu trăm năm! Bấy lâu thảo dân nghĩ về hai con rồng của bệ hạ, mà tổn hao nguyên khí, hình vóc gầy mòn, tóc trắng như sương, âu cũng xứng đáng thôi.
Hơn cả lần trước, nhà vua cho trên án thắp trầm hương, dưới thềm rải hoa lan trắng. Truyền cho chính Tể Tướng nâng chiếc mâm vàng (trên đó có hai dải lụa). Hạ đón nhận, rồi cũng quan sát kĩ càng như hai năm trước, đoạn reo lên:
- Phi thường xảo diệu! Rõ là trên đời có một không hai!
Nhà vua mãn ý, lệnh cho bốn cung nhân mặt ngời như ngọc, căng bốn góc dải lụa cho lão Hạ trổ tài thần thủ. Lão Hạ bày biện họa cụ; nhưng không như lần trước, lần nầy chỉ có một cây bút lớn và một lọ mực đen! Mọi người nhìn nhau trong lúc Lão Hạ vén áo, chấm mực, múa tay một vòng rồi chấm bút từ phía trên dải lụa, đoạn kéo thẳng xuống một đường! Nhà vua còn trố mắt, quần thần vẫn há hốc mồm, có kẻ toát mồ hôi, thì lão Hạ sang dải lụa bên kia, cũng xổ xuống đường y như thế; Đoạn quăng bút, vòng tay trước nhà vua:
- Tâu bệ hạ! Thảo dân đã xong nhiệm vụ!
Nhà vua nghiến răng ken két:
- Nhiệm vụ của ngươi xong, đồng thời mạng ngươi cũng hết!
Nói xong thét quân lôi lão Hạ ra ngọ môn chém đầu. Lão Hạ nhìn lên trời than:
- Than ôi! Quyền lực và chân nghệ thật khó thể đi cùng! Ta chết không xứng đáng chút nào!
Thương thay, quan ngự y cũng bị chung số phận!
*
Từ ấy đến năm năm sau, nhà vua vẫn vào ra phiền muộn. Quần thần bèn khuyên nhà vua nên đi săn cho khuây khỏa.
Cảnh vật thiên nhiên có sức quyến rũ lạ kì, không mấy chốc làm lòng vua thanh thản, mặt rồng lại rạng niềm vui. Bỗng đến một vùng có đầy hoa dại, hương thơm làm sảng khoái lòng người, bướm đủ màu bay lượn chập chờn, trên cành chim hót líu lo, dương quang ấm áp, gió mát trong lành. Nhà vua hỏi:
- Đây là nơi nào mà chẳng khác Bồng Lai?
Một tùy tướng đáp:
- Tâu bệ hạ! Đây là chân núi Nhạn Sơn. Còn trước mặt là.. là… sơn cốc của lão Hạ.
Tưởng rằng sau khi nghe hai tiếng “lão Hạ”, nhà vua sẽ nổi lôi đình, nào ngờ vua vẫn thản nhiên, giục ngựa bước tới. Gần đến sơn cốc, bỗng tùy tướng ghìm mạnh dây cương, hô to:
- Có mãnh hổ! Hộ giá!
Trước sơn cốc, hai con cọp lớn đang ẩn mình sau hai khối đá với tư thế rình mồi. Vị võ tướng lắp tên. Vèo một phát, tên ghim ngay yết hầu thú dữ, cùng lúc đó là hàng trăm mũi tên khác vút tới, con còn lại cũng chung số phận. Lạ một điều là chúng không hề gầm thét, giãi giụa như bao con thú bị thương! Đoàn người tiến tới, thấy hai con hổ dù bị tên ghim như lông nhím, nhưng thần khí uy phong vẫn toát ra làm họ cũng phải chùn chân! Vị võ tướng xuống ngựa, tuốt gươm cẩn trọng từng bước tiến tới, nhưng khi đến gần xác hổ, lại đứng nhìn một hồi rồi …tra gươm vào vỏ! Thì ra hai mãnh hổ nầy chỉ là con đẻ của ngòi bút lão Hạ! Nhà vua ngẫm nghĩ, giọng buồn buồn:
- Lão ta mượn đôi mãnh hổ nầy để đánh lừa hoang thú! Quả thật tài tình!
Nhà vua nhìn vào trong, thạch động bụi giăng nhện bám. Bước thêm vài bước, qua một khúc quanh, viên võ tướng cùng nhà vua đồng thoái bộ, tuốt vội gươm ra, vua tôi cùng hoảng hốt la to:
- Rồng!
Hai bên vách đá, hai con rồng nhe nanh phóng vuốt như muốn ăn tươi nuốt sống mọi người. Sau khi định thần, thì ra chỉ là hai con rồng được vẽ trên hai dải lụa tầm thường! Đã biết là rồng vẽ, nhưng răng hai hàm trông nhọn như lưỡi kiếm, vuốt bốn chân xem sắc như đao, mình rồng ẩn hiên trong mây. Như có phép thần thông thổi vào người chúng, nên trông sống động lạ thường: Lửa từ miệng rồng như nóng rực, mây che thân rồng như cuộn cuộn tung bay, đầu rồng như lắc lư, chân rồng như phóng tới, thân rồng như lượn qua lượn lại, khi giáng, khi thăng. Mọi người đứng im lìm nào khác cây khô! Bỗng từ đâu một cơn gió nhẹ làm lung lay hai dải lụa, thì hai con rồng như chực phóng ra ngoài! Vua tôi lại lùi một bước thủ thế! Viên võ tướng nói như để chữa thẹn:
- Tài hoa nầy trên đời không thể có hai!
Nhà vua than thở:
- Phải chi năm xưa lão ta chỉ cần vẽ cho ta hai con rồng với nghệ thuật được một nửa nầy thôi, thì hắn đâu bị họa sát thân; mà đất nước nầy cũng không mất một nhân tài!
Nói đoạn, cùng tiến vào trong. Lại có hai con rồng được treo trên vách đá! Đã chuẩn bị tinh thần từ trước nên vua tôi không còn khiếp sợ. Nhà vua quan sát, thấy hai con rồng nầy thiếu vài chi tiết so với hai con rồng trước, nhưng nét uy phong vẫn đủ mười mươi. Qua lối rẽ kế tiếp, rồi kế tiếp, liên tục đến tám cửa như vậy, mỗi cửa đều có hai con rồng, và lúc nào hai con sau cũng thiếu nhiều chi tiết so với hai con trước (nhưng thần hồn của chúng không khác)
Vừa bước qua cửa thứ chín, nhà vua thấy trên thạch bàn la liệt nào bút, nào nghiên, nào mực; lớn nhỏ, đủ màu buồn bã ủ bụi thời gian. Kế đó là một giường tre được phủ lên một lớp cỏ khô, Góc kia, trên một giá gỗ, lèo tèo hai ba chén đũa, nội niêu; dưới đó, ba cục gạch với ba hình thù, lớn nhỏ không đều được kê làm bếp. Vài con gián đang ngự trên đó, thấy động vội vã bỏ đi...
Nhà vua lắc nhẹ đầu, cảm thương cho đời người hàn sĩ tài hoa. Bỗng ngài phát hiện một hộp gỗ ở đầu gường ẩn mình dưới lớp cỏ. Đây có lẽ là vật quí giá nhất của một người sau bao nhiêu năm cầm bút. Nhà vua bèn mở ra, run tay khi thấy hai dải lụa được cuộn tròn để cẩn thận trong ấy, vua bèn nhanh tay giũ xuống một cuộn, rồi giũ luôn cuộn thứ hai: Hai đường mực đen nằm dài trên hai thân lụa, y như hai đường mực đen nằm trên hai giải lụa tại sân rồng gần mười năm về trước!
Nhà vua rơi phịch xuống giường, ôm đầu rên rĩ: “ Hạ hiền khanh ơi! Ý của khanh là thế nào đây?” . Đám võ tướng đều ngẩn người nhìn nhau; một vị bạo gan nói:
- Tâu bệ hạ! Có phải chăng Hạ hiền sĩ muốn nói rằng: “ Cái cao diệu nhất của nghệ thuật là đơn giản” chăng?
Nhà vua nhìn vị võ tướng ấy cười tha thứ, lắc đầu.
Bỗng một tên quân đến quì mọp dưới chân nhà vua:
- Tâu bệ hạ! Nếu bệ hạ không bắt tội, phận hèn mọn nầy xin có đôi lời…
- Cứ nói!
- Nhưng kẻ hèn mọn nầy chỉ muốn thưa riêng cùng bệ hạ!
Không biết nhà vua rộng lượng từ lúc nào! Ngài liền khoác tay cho mọi người đi ra.
Tên quân vừa nói xong, long nhan rạng rỡ, chỉ khen một tiếng to: “Hay!” rồi truyền hồi kinh!
Nhà vua cho cải táng hài cốt lão Hạ theo lễ đại phu, ban ân cho con cháu ngự y đời đời hưởng lộc. Đổi tên Nhạn Sơn là Hạ Sơn để nhớ ơn người đã vẽ hai con rồng với… hai nét mực dài!
Từ đó nhà vua trở nên là vị minh quân. Nhưng đến nay, người ta vẫn thắc mắc tên quân ấy đã nói những lời gì với nhà vua tại thạch động Nhạn Sơn? Mỗi người đều bàn theo suy nghĩ của mình, không ai chịu thua ai. Dần dần theo thời gian, mọi chuyện cũng chìm vào quên lãng./.
KHA TIỆM LY
khatiemly@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét