Nói đến Quảng Ngãi, người ta nghĩ ngay đến nghề trồng mía và những sản phẩm từ đường mía nổi tiếng lâu đời, như câu ca dao:
Ai về Quảng Ngãi quê ta
Mía ngon, đường ngọt, trắng ngà dễ ăn
Mạch nha, đường phổi, đường phèn
Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền.
Không chỉ có đường, đặc sản Quảng Ngãi còn có cây quế:
Ai về Quảng Ngãi
Cho tôi gởi ít tiền
Mua giùm miếng quế lâu niên
Đem về trị bệnh khỏi phiền bà con.
Cây mía và cây quế giống nhau ở chỗ chúng không cho trái nhưng thân của chúng lại chắt lọc và tích tụ những chất tinh khiết quý giá, ngọt và thơm.
Muốn có sản phẩm từ cây mía, cây quế, người Quảng Ngãi phải bỏ công cày cuốc, trồng tỉa, chăm bón trên đất đai cằn cỗi và khô nóng và rồi phải qua chế biến công phu mới tạo ra được sản phẩm - đó là một quá trình khó nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt, đòi hỏi cả sự khéo léo của đôi tay và cả trí tuệ nữa.
Đặc điểm sự hình thành của đường trong thân cây mía, tinh dầu trong thân cây quế và đặc điểm của lao động để làm ra sản phẩm từ đường và quế, thực phẩm có nhiều đường và thuốc chửa bệnh có nhiều quế chắc chắn ảnh hưởng đến tính cách của người Quảng Ngãi, ảnh hưởng đến nếp suy nghĩ, cách ứng xử, tình cảm của họ đối với lao động, thiên nhiên và cộng đồng. Và chắc chắn ảnh hưởng đến thơ văn của họ nữa.
Quảng Ngãi không chỉ nổi tiếng về đường và quế mà còn là sinh quán của nhiều nhà thơ lớn của dân tộc như Bích Khê, Tế Hanh, Thanh Thảo, Lâm Anh, Nguyễn Trung Hiếu, Xuân Thới, Khắc Minh, Nguyễn Tấn On ... và trẻ hơn, ở độ tuổi trung niên, có Đinh Tấn Phước, Mai Bá Ấn, Nguyễn Ngọc Hưng ... Ngôn ngữ thơ của họ phản ánh sức sáng tạo tự thân và lao động nghệ thuật công phu để cho ra những vần thơ giàu chất suy tư và thắm đẩm tình người.
Trong số những nhà thơ trung niên đang sáng tác mạnh, Nguyễn Ngọc Hưng là người được biết đến nhiều nhất không chỉ vì tình trạng sức khỏe khiến anh phải nằm một chỗ, số tập thơ in riêng của anh nhiều hơn những nhà thơ khác, số giải thưởng đồ sộ của anh, mà còn vì cuộc sống của anh hoàn toàn chỉ dành cho thơ, sống chỉ để làm thơ. Cuối năm 2012, anh đã cho in tập thơ thứ 11 của mình: Bài Ca Con Dế Lửa. Tập thơ gồm có 99 bài thơ và 13 bài bình luận, được phát hành đầu năm 2013, đúng vào dịp kỷ niệm 20 năm kể từ ngày anh xuất bản tập thơ đầu tiên: Cầm Sợi Gió Trên Tay, 1993.
VNQT hân hạnh được nhà thơ Nguyễn Ngọc Hưng tặng tập thơ Bài Ca Con Dế Lửa gởi từ Hà Nội.
Chân thành cám ơn nhà thơ Nguyễn Ngọc Hưng và NXB Kim Đồng và xin trích đăng bài bình thơ của Võ Thị Như Mai, một nhà thơ nữ gốc Việt đang định cư tại Úc. Mời các bạn cùng đọc.
VÕ THỊ NHƯ MAI
“NƠI ẤY BỐN MÙA, NƠI ẤY MỘT TRÁI TIM”
Mùa đông năm nay ở Tây Úc kéo dài quá chừng. Những ngày đông lê thê cũng có thể do cảm nhận của riêng tôi, do cái ho hen sổ mũi ào ào đến rồi chậm chạp bò đi dăm lần bảy lượt của cậu con trai yêu dấu, do tôi quá bận rộn để đi ra ngoài ngắm những thảm hoa dại nở rộ trên khắp tiểu bang. Thời tiết ở đây cũng hơi trái khoáy. Trong khi tôi thường rên rỉ với bạn về cái lạnh thấu xương, về làn môi nức nẻ thì ở Hà Nội, các cô gái duyên dáng đang tung tăng trong váy hoa giữa khí trời nắng trong.
Qua tháng chín, trời ấm dần lên. Tôi mang những chiếc áo dày xù xì cất vào nhà kho và sắp xếp lại những bộ đồ nhẹ nhàng, dễ chịu cho gia đình. Thế nhưng lòng tôi vẫn trĩu nặng một cảm giác buồn lây lất khó mà diễn tả được. Ở bên nhà lũ lụt triền miên hết miền quê này đến vùng đất khác, hết Quảng Bình lụt cục bộ đến Quảng Trị vỡ hai đoạn đê, hết bùn đỏ ở Cao Bằng đến những băn khoăn về dự án bauxite ở Tây Nguyên.
Ôi chao, cái guồng máy xã hội vẫn vận hành, vẫn quay, vẫn chống chọi với thiên tai, giông gió, vẫn luôn có kẻ vui như hội, và vẫn có người sầu muôn nơi. Tôi thường hay mè nheo với bạn và thích được nghe bạn nói chuyện thời sự. Bạn bảo, tôi nói chuyện cho cô biết tin tức để mà cập nhật thôi, chứ cô buồn rầu thì cũng không giải quyết được gì, nhưng mà tôi nói cho cô hay, xung đột và những muộn phiền trong xã hội là điều không thể nào tránh khỏi, nhưng đất nước vẫn đang mở cửa và đang đi lên, vẫn rực rỡ trong mùa lễ hội, vẫn giữ được phong thái đặc trưng của mỗi vùng mỗi miền và con người vẫn không ngừng thi đua, học hành, phát kiến. Bạn còn cao hứng đọc cho tôi nghe một bài thơ rất dài của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mà bạn yêu mến: “Nơi ấy bốn mùa nơi ấy một trái tim”. Bài thơ bắt đầu thế này:
Nơi ấy có mùa hạ
Ngan ngát sen thơm
Ngực gió phập phù
Nơi ấy có mùa thu
Bảng lảng sương mù
Nồng nàn hương sữa
Nơi ấy có mùa đông
Run run lá bàng thắp lửa
Thấp thoáng bóng ai nép mình bên cửa
Nghe gió mùa thắc thỏm đợi tình nhân
Nơi ấy có mùa xuân
Nô nức đào son, quất vàng, mai trắng
Chảy như sông lặng như hồ sâu lắng
Đi hết ngày chưa hết một chợ hoa
Nơi ấy có ngàn năm suy- thịnh, chiến- hoà
Máu đỏ nên sông
Xương chồng nên núi
Có thuở xênh xang có khi lầm lũi
Vẫn hào hoa thanh lịch “nhất kinh kỳ…”
Hoá ra bạn đang mơ màng về Hà Nội có bốn mùa rõ rệt với “sen thơm”, “hương sữa”, “lá bàng”, “đào son”, “mai trắng”; Hà Nội của những ký ức bi hùng không thể nào phai, Hà Nội với đại lễ ngàn năm diễn ra sôi động và Hà Nội “thanh lịch” gợi mở cảm hứng cho biết bao thi nhân. Câu chuyện của chúng tôi lần nào cũng thế, loay hoay mãi rồi cũng hướng về nơi ấy. Tôi yêu Hà Nội qua tình yêu thiêng liêng của bạn dành cho miền đất này, qua những bài hát làm đắm say lòng người, qua những bài cảm nhận của những người sống trong lòng Hà Nội và những người đi xa. Một đồng nghiệp của tôi đã đến Hà Nội đến ba lần. Cô ấy bảo rằng dự định của hai lần sau là đi Singapore và Hong Kong thôi, nhưng lần nào cũng “ghé lại” Hà Nội và ở lại đó đến bốn, năm ngày. Tôi chưa từng được đến đó chỉ vì Quảng Trị thường giữ chân tôi lâu trong những dịp hiếm hoi về thăm quê.
Bạn đọc bài thơ này mà như hát. Qua điện thoại, tôi có thể hình dung bạn đang nhắm mắt đắm mình vào trong từng con chữ và thế giới cảm xúc về thiên nhiên đất trời, hoà nhịp vào mạch ngầm cảm hứng của bài thơ với những hình ảnh về ấn tượng của một Hà Nội vô cùng thân thương. Tác giả phải là người có một trái tim thổn thức và một tâm hồn lắng đọng mới có thể vẽ lên một bức tranh Hà Nội qua những hình ảnh đặc trưng và thổi vào những hình ảnh này hồn thơ man mác bằng những từ luyến láy gợi cảm như thế: “ngan ngát”, “phập phù”, “bảng lảng”, “nồng nàn”, “run run”, “thấp thoáng”, thắc thỏm”, “nô nức”, “xênh xang”. Nghệ thuật sử dụng từ láy ở đây không những diễn đạt được sắc thái cảnh vật mà còn biểu lộ rõ nét tâm trạng con người.
Tổ tiên tôi từ nơi ấy ra đi
Khai khẩn đất đai, mở mang bờ cõi
Nắng gió tha phương dẫu ít nhiều lai pha giọng nói
Hát về đất nước quê hương chưa lệch chuẩn bao giờ
Một cuốn sách phát hành gần đây có tựa đề “Ngôn ngữ văn hóa Thăng Long – Hà Nội 1000 năm” (NXB Thông Tin và Truyền Thông, Hà Nội, 2010) có nhiều bài nghiên cứu hay về ngôn ngữ trong tiến trình văn hóa dân tộc. Cũng như quy luật tự thân phát triển của ngôn ngữ nói chung, tiếng Hà Nội biết tiếp nhận cái mới và tinh hoa của bốn phương, hội nhập và chắc lọc để tự hoàn thiện ngôn ngữ Việt (theo PGS TS Nguyễn Xuân Hoà). Tác giả của bài thơ mà bạn tôi qúy mến không trực tiếp đề cập đến ngôn ngữ văn hóa Việt nhưng có một phát hiện thật tinh tế làm bạn cứ xuýt xoa mãi, người tha hương “ít nhiều lai pha giọng nói” nhưng khi “hát về đất nước quê hương” thì “chưa lệch chuẩn bao giờ”. Điều này làm tôi nghĩ ngay đến cô ca sĩ khả ái Thùy Hương của trung tâm Asia , sinh ra và lớn lên ở Mỹ, có học vị cao, có giọng hát trong trẻo và phát âm rõ ràng ngoài cái vẻ trẻ trung, duyên dáng. Bạn bất chợt dừng lại và hỏi tôi dồn dập: Nào là con trai tôi có nói và hát được tiếng Việt nhiều chưa? Tôi có định tập cho cháu viết và đọc được tiếng Việt không? Nào là: Con nít học lẹ lắm, đừng có bỏ phí, tiếc lắm, tiếc lắm…
Bài thơ bước sang một chuyển mạch cảm hứng mới kết nối giữa hiện tại và quá khứ, giữa Hà Nội trong cái hoài niệm thân thương và Hà Nội đáng yêu bây giờ với “pháo hoa đèn điện” và dòng người đến viếng lăng Bác, giữa Hà Nội hào khí hồn thiêng sông núi với niềm kính trọng sâu sắc của một tấm lòng người conViệt đối với quê cha đất tổ.
Hồn sông núi bay lên
Chót vót đỉnh Cột Cờ
Tha thiết “tả thanh thiên” với đài Nghiên tháp Bút
Nơi rùa đá đội bia thơm
Nơi ngựa thần lửa phun ngùn ngụt
Hồ trả gươm nhân nghĩa sáng muôn đời
Nơi “Điện Biên Phủ trên không” từng cháy rực một thời
Giờ rạng rỡ những pháo hoa đèn điện
Mặt trời
Mặt trăng
Tiếp nối liên miên dòng thăm viếng
Hội tụ năm châu
Dung hoà bốn biển
Lăng Bác Hồ hoá bảo ngọc lương tri
Tôi yêu Người không một chút hồ nghi
Ơi Hà Nội- trái tim hồng Tổ quốc
Một lần đến đã ngàn năm thân thuộc
Người trong tôi
Mãi linh hiển dáng rồng!
Lâu lắm rồi tôi mới có dịp nghe một bài thơ hào hùng đầy cảm hứng về Hà Nội nói riêng và đất nước nói chung như thế. Khi còn học phổ thông, tôi rất thích những bài thơ về quê hương đất nước của Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm và Giang Nam qua lời phân tích đầy xúc động của cô giáo, và sau này được nghe lại khi đi dự giờ của đồng nghiệp. Giờ đây được thưởng thức bài thơ của Nguyễn Ngọc Hưng, tôi bỗng nhớ đến da diết lời giảng bài của cô giáo mình, làn điệu man mác âm hưởng sử thi với những yếu tố cổ điển và hiện đại hoà quyện nhau trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm, niềm cảm xúc dâng trào với những hồi tưởng êm ái về mùa thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi hay cái da diết trong tâm khảm khi đọc Giang Nam. Những bài giảng tha thiết ngày ấy tưởng chừng như không có một mối liên quan nào với cuộc sống bộn bề của hiện tại, thế mà trong phút chốc bỗng quay về thật trìu mến thân thương.
Cho tôi xin
Một vốc nước sông Hồng
Một nắm đất gò Đống Đa lịch sử
Một chỗ đứng khiêm nhường nơi vua Lý anh minh từng ngự
Cùng dân tộc nghiêm cẩn, nức lòng nghe đọc “Chiếu dời đô”
Cho tôi xin
Một lần gặp Bác Hồ
Phút thiêng liêng người dõng dạc “Tuyên ngôn Độc lập”
Cho tôi được cùng 80 triệu trái tim chung nhịp đập
Đơm vạn đoá sen hồng dâng đại lễ NGÀN NĂM…
Xin được thanh tẩy tâm hồn xua sạch bóng tối tăm
Làm một viên gạch Hoàng Thành
Một ánh trăng Văn Miếu
Một chấm vàng hoa rêu năm Cửa Ô
Một tia nắng đỏ đậu vai cầu Thê Húc
Một hòn sỏi vô danh biết quên hết
những giông bão đau thương gió mưa tủi nhục
Lặng lẽ hiến dâng
Lặng lẽ góp mình
Ơi thành- phố- xanh, thành- phố- hòa- bình
Không chỉ ngàn năm, vạn năm Người mãi đẹp như thiên đường thu nhỏ
Mở cửa rồi- bốn phương lộng gió
Bỏ lối mòn xưa tránh con đường cũ
Bay lên cùng vận hội mới
Thăng Long!
Nếu tôi nhắc đến Tố Hữu, một số bạn đọc sẽ không thích lắm, rằng thơ ông không còn hợp thời, rằng thơ ông cực kỳ mang nặng tính tuyên truyền (nhà thơ Ngô Minh), mọi người thuộc thơ ông vì không có chỗ trốn khỏi thơ ấy (nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân). Riêng tôi, tôi thuộc một số bài thơ, câu thơ của Tố Hữu hoàn toàn không phải vì hai lý do trên. Thơ Tố Hữu hay thơ của bất cứ nhà thơ nào trong thời đại nào, tôi thuộc vài câu thơ, vài bài thơ của họ là do tôi yêu thích những vần thơ ấy, chỉ đơn giản thế thôi. Làm thơ và viết văn ở mỗi thời mỗi khác do ảnh hưởng và sức ép của xã hội nhưng không vì thế mà không có những vần thơ đẹp, không vì thế mà không có những hồi tưởng bay cao hay mơ màng hình dung về một thời đã qua. Và trong thời khắc này đây, những vần thơ của Nguyễn Ngọc Hưng đã đưa tôi và bạn hướng về một cái nhìn chung, về một thời đất nước trong đó có Hà Nội sau những tháng năm dài đau thương, chiến tranh khốc liệt, giờ đây đã vươn mình lên yên ấm an lành. Guồng máy xã hội của chúng ta bây giờ vẫn đang nuôi dưỡng những người con đã từng một thời trải qua bom đạn tơi bời, một thời xém bỏ mạng giữa rừng, một thời đặt một nhành hoa lên nhúm mộ của người bạn thân ngã xuống. Tôi cũng đã có lúc trải những suy tư của mình thế này lên trang giấy khi đón nhận một số học sinh mới nhập cư:
em Iraq khuôn mặt tròn bầu bĩnh
em Afganistan vui tính
em Somalia nhỏ nhắn thơ ngây
em Afganistan vui tính
em Somalia nhỏ nhắn thơ ngây
giữa những nụ cười trong veo ấy
chiến tranh là một từ rất gần
chiến tranh là một từ rất gần
đất nước tôi bây giờ bình yên, rộn rã, tưng bừng
tạm quên vết thương thời chiến
người tìm đến người thánh thiện
những linh hồn bé bỏng lại sinh sôi
tạm quên vết thương thời chiến
người tìm đến người thánh thiện
những linh hồn bé bỏng lại sinh sôi
Roman Jakobson đã từng nói rằng “Thơ gìn giữ chúng ta chống lại tính máy móc, sự han rỉ hăm dọa tâm hồn”. Xin cảm ơn bạn, cảm ơn nhà thơ Nguyễn Ngọc Hưng đã cho tôi những giây phút được hướng về nguồn cội của mình qua một bài thơ viết về một chủ đề lớn, chủ đề đất nước. Khi tâm sự đến đây, tôi nhìn đồng hồ và bất chợt nhớ ra, đã gần 11 giờ trưa rồi. Tôi vội giải thích cho bạn, rằng ngày hôm nay, 11 tháng 11 được chọn là ngày lễ tưởng niệm (Remembrance Day) trên toàn nước Úc. Một chút xíu nữa, bạn hãy cùng tôi và tất cả mọi người ở Tây Úc, dừng lại và nhắm mắt lặng yên trong 2 phút để được tưởng niệm về những người đã hi sinh trong các cuộc chiến. Hai phút bắt đầu bạn nhé!
Võ Thị Như Mai.
Tây Úc 11/11/2010
LÝ LỊCH VĂN HỌC
NGUYỄN NGỌC HƯNG
*******
SƠ YẾU LÝ LỊCH:
Sinh ngày: 20.04.1960
Quê quán: Hành Thịnh, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi
Tốt nghiệp ĐHSP Quy Nhơn khóa 2 (1979-1983)
Bị bệnh từ năm 1983
Hiện đang sống và viết ở Thị trấn Chợ Chùa, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi với bạn bè thời phổ thông trung học
TÁC PHẨM:
Đã xuất bản 7 tập thơ thiếu nhi, 6 tập thơ tình và góp mặt trong nhiều tuyển thơ.
GIẢI THƯỞNG:
1. Tặng thưởng Văn học cho thiếu nhi - Hội Nhà Văn Việt Nam , 1994
2. Giải thưởng cuộc thi thơ quốc tế dành cho người tàn tật “Một trái tim- Một thế giới” năm 2000
3. Giải B của Ủy Ban Toàn Quốc Liên Hiệp Các Hội VHNT Việt Nam , năm 2009
4. Huy chương “Vì sự nghiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam ”, 2004
…
ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC:
NGUYỄN NGỌC HƯNG
Đội 10, thị trấn Chợ Chùa
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
ĐT: 055.3861.312
Email: nguyenngochung204@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét