|
Nhà thơ Nguyễn Ngọc Hưng và hình bìa tập thơ Bài Ca Con Dế Lửa (2012) |
GIẤC MƠ PHÙ SA
Như sực tỉnh giấc mộng vàng hối hả
Anh lên tàu giáp Tết ngược miền Trung
Chưa hết “mồng” lại ra đi vội vã
Tiễn bước tha phương gió cũng ngại ngùng
Một con mắt hút chân trời trước mặt
Một mắt còn thăm thẳm phía sau lưng
Thương dáng mẹ trăng chiều nhen bếp lửa
Sợi khói lam vờn tóc bạc rưng rưng
Quên sao được mùi rạ rơm thơm thảo
Giun dế mùa tha thiết gọi bình yên
Tai ù đặc bốn phương đời bão nổi
Còn vẳng đâu đây một tiếng chim chuyền
Sao đành bỏ những bờ xôi bãi mật
Nơi hồn cây vía cỏ rất ngoan hiền
Đến bắp ngô non cũng tròn căng sữa
Hôi hổi chờ tay ngỏ ý trao duyên
Xuân ngơ ngác giữa cao tầng, cao tốc
Mắt nhà quê bạc trắng khói thị thành
Vào mê lộ mãi loanh quanh tìm kiếm
Chưa thấy vàng đã mất nửa đời xanh
Dùng dằng gió quật anh về hai phía
Lại cuốn vào cơn lốc xoáy miên man
Nghiêng bóng tháng giêng đổ vào tháng chạp
Mơ phù sa sinh nở những mùa màng!
Nguyễn Ngọc Hưng
(Báo Phụ nữ Việt Namcuối tuần số Tết Tân Mão 2011)
GIẤC MƠ VỀ CỘI NGUỒN THÁNH THIỆN
Hiếm có bài thơ nào diễn tả thấm thía đến thế bi kịch và nỗi lòng của người con buộc phải xa quê dấn mình vào chốn thị thành kiếm sống trong cực nhọc và lạc lõng, nói theo người xưa là “ tha phương cầu thực”. Bài thơ không chỉ nói đến thân phận của một người (“anh”) mà là thân phận của không ít người - những con người đang phải để mình bị “cuốn vào cơn lốc xoáy miên man” của cuộc sống thời công nghiệp hóa, đô thị hóa. Biết bao người đã phải lìa xa quê hương để tìm nguồn sống, vì làm nông nghiệp (thuần nông) không thể đủ sống trong thời nay! Tâm trạng của họ ra sao? Nguyễn Ngọc Hưng bằng trái tim đầy nhạy cảm đã khắc họa tâm trạng ấy trong “Giấc mơ phù sa”.
Không phải lần đầu tiên người con trai ấy ra đi từ làng quê để mưu sinh nơi thành thị. Nhưng lần nào cũng day dứt, cũng vội vàng, nửa như cố dứt bỏ để tiếp tục kiếm sống nơi xa xứ, nửa đầy nuối tiếc. Tết chưa qua hẳn: “chưa hết mồng” mà đã phải ra đi. Tất cả chỉ vì cơm áo. Nhưng làm sao dứt hẳn, quên hẳn được nơi anh vừa bỏ lại, nơi sinh thành ra anh, nơi có mẹ, có đồng quê yên ả, có một thời yêu dấu... Cho nên:
“Một con mắt hút chân trời trước mặt
Một mắt còn thăm thẳm phía sau lưng”
Làng quê ấy, nơi mà có lẽ một năm anh chỉ về được một lần vội vã vì xa xôi cách trở với nơi đang sống, đang làm việc (phải đi tàu, vào dịp Tết) có biết bao điều níu kéo anh lại:
Nào là:
“Dáng mẹ trăng chiều nhen bếp lửa
Sợi khói lam vờn tóc bạc rưng rưng”
(Hình ảnh không mới, nhưng vẫn đầy xúc động. Mẹ bao giờ cũng là hình ảnh đầu tiên mà mỗi người con nhớ về khi nghĩ đến quê hương, hình ảnh mẹ hóa thân vào quê hương, chồng lên hình ảnh quê hương
Nào là đồng quê với mùi rạ rơm, giun dế, tiếng chim chuyền vẫn hiện về trong anh ngay cả những khi khốn khó, sóng gió nhất nơi xa xứ: “ Tai ù đặc bốn phương đời bão nổi”. Nào là những “bờ xôi bãi mật”, “bắp ngô non” ấm áp, thơm ngọt trao tay trong tình quê mộc mạc... Tất cả như một thiên đường trong ký ức.
(Có thể có người nghĩ rằng hình ảnh ở khổ thơ thứ ba không sát thực với miền Trung “đất cày lên sỏi đá”, với hoàn cảnh nhân vật buộc phải tha phương kiếm sống, nhưng đây là logic của thơ. Quê hương trong tâm tưởng vẫn đẹp biết bao, màu mỡ và trù phú biết bao dù ít ỏi những “bờ xôi bãi mật”, bởi ký ức con người luôn nâng niu vẻ đẹp của quê hương).
Nhưng, bi kịch thứ nhất là ở chỗ, anh phải dứt bỏ tất cả những điều
đó để mà:
“Xuân ngơ ngác giữa cao tầng, cao tốc
Mắt nhà quê bạc trắng khói thị thành
Vào mê lộ mãi loanh quanh tìm kiếm
Chưa thấy vàng đã mất nửa đời xanh”.
Đây là khổ thơ tâm điểm của bài thơ, đầy tâm trạng, được khái quát và triết lý hóa. Buộc phải vào thành thị kiếm sống, chất “nhà quê” vẫn keo sơn gắn với con người anh, nó khiến anh trở nên lạc lõng, giữa những giả dối, bon chen, giẫm đạp nhau mà sống trong “mê lộ” nơi phồn hoa xa lạ. Một hình ảnh thật đắt giá:
“Xuân ngơ ngác giữa cao tầng, cao tốc
Mắt nhà quê bạc trắng khói thị thành”
Không thể hòa nhập được với những điều đó, người con của làng quê vẫn cố tìm kiếm những điều tốt đẹp: một cuộc sống ấm no, chan chứa tình người. Và có lẽ cả thành công, vinh quang nữa. Nhưng:
“Chưa thấy vàng đã mất nửa đời xanh”
Những hình ảnh đối lập nhau: “xuân” - “cao tầng, cao tốc”, “nhà quê” - “thị thành”, “vàng” - “nửa đời xanh” càng làm bật lên bi kịch thứ hai của người con xa quê: không thể hòa nhập, không thể vươn lên trong một môi trường xa lạ đến thế.
Và, tất yếu sau những bi kịch ấy là sự giằng xé:
“Dùng dằng gió quật anh về hai phía”
Ở lại thì không thể sống (về mặt vật chất), mà ra đi thì đau đớn (về tinh thần). Rồi vẫn phải ra đi vì cuộc sống. Tưởng như bài thơ sẽ kết thúc một cách ảm đạm. Nhưng không, tác giả đã hạ câu kết bất ngờ làm sáng cả bài thơ:
“Nghiêng bóng tháng giêng đổ vào tháng chạp
Mơ phù sa sinh nở những mùa màng!”
Có thể nói đây là một sáng tạo độc đáo của tác giả, một cách giải quyết có hậu cho những bi kịch trong bài thơ. Đó cũng chính là tên bài thơ: “Giấc mơ phù sa”. Những người con của làng quê không thể ở lại quê hương vì sinh kế, nhưng vẫn có quyền hy vọng, mơ ước đến những điều tốt đẹp cho tất cả, nhất là khi tháng giêng- đầu năm mới đã đến. Và như vậy, bài thơ đã làm dịu lòng những thân phận tha hương, dịu lòng người đọc. Người ra đi không đơn độc, sau lưng anh vẫn có mẹ hiền, quê hương yêu dấu, đêm về sau những nhọc nhằn, giằng xé anh vẫn được ru êm bằng giấc mơ phù sa ngọt ngào.
Bài thơ xúc động và hay không chỉ vì tứ, vì nội dung. Bằng nghệ thuật thơ tinh tế, những câu thơ 8 chữ khắc khoải, dồn nén như lời kể nghẹn ngào, những lời như tâm sự “quên sao được”, “sao đành bỏ”, những hình ảnh thơ đúng chỗ, đắt giá, những từ ngữ sắc sảo như trong phóng sự: “ngơ ngác”, “bạc trắng”, “loanh quanh”, “chưa thấy … đã mất”, tác giả đã gieo vào lòng người đọc niềm đồng cảm với thân phận con người trong bài thơ và giấc mơ về cội nguồn thánh thiện, điểm tựa tinh thần cho người con tha phương: “giấc mơ phù sa”.
Trần Thị Tích
ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC:
NGUYỄN NGỌC HƯNG
Đội 10, thị trấn Chợ Chùa
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
ĐT: 055.3861.312
Email: nguyenngochung204@gmail.com